Phía núi

Trăng nghiêng mình xuống dòng sông hiền hòa bàng bạc. Gió không ngừng thổi hắt từ phía sông mát rượi. Trong căn nhà nhỏ, ông Dự nhấp ngụm rượu ngô cuối cùng được đựng trong ống nứa. Ông Dự có thói quen đựng rượu bằng ống nứa truyền từ thời ông nội, ống nứa nhẹ bẫng ông dốc ngược lên tu, tay lắc lắc tìm kiếm giọt rượu cuối cùng. Con Mực ngồi cạnh nhìn ông, cái đuôi ngoe nguẩy mắt nhìn xuống nền đất vẻ như chờ đợi chủ thưởng cho cái đầu cá hay một cục xương.
Mặc dù chuyển đến nơi ở mới đã lâu nhưng hình ảnh về bản làng cũ hiện hữu trong ông từ giấc ngủ hoặc mỗi khi lên nương, xuống suối. Nơi cũ có người vợ, đứa con thơ, hồn vía họ có theo ông về nơi ở mới hay không ông cũng chẳng rõ. Gió rít lên như những lời than vãn, ông thèm nghe tiếng trò chuyện, tiếng thủ thỉ nói cười của người vợ, thèm có người quan tâm gọi ông mỗi sớm: “Nước dưới bếp sôi rồi, mình có pha chè thì pha nhé!”.  Tiếng trẻ bi bô đùa nghịch đâu đây càng làm cho ông thêm nhức, buốt lòng muốn được nghe đứa trẻ gọi “bố ơi” giữa mênh mang chiều khi hoàng hôn đang sầm sập xuống.
Gió thốc ngược từ phía chân núi, mắt ông như nhòa đi trong hình bóng sa mu. Cây sa mu già đầu bản, ông nhớ nó biết bao. Ông không biết cây sa mu đó có tự khi nào, ông lớn lên đã thấy nó sừng sững ở đấy rồi, chính nơi đây cũng là nơi ông quen người vợ quá cố trong một lần chạy lũ nên quý và coi sa mu như một người bạn. Mùa xuân đến, khi những lễ hội bản chưa hết thì cây sa mu cũng khoác lên mình một màu xanh biếc, ngàn ngàn những lá non mơn mởn tràn sức sống.
Ngày chuyển đến nơi ở mới ông cứ day dứt mãi về cây sa mu ấy. Phải ở lại nó chắc sẽ rất cô đơn chỉ có gió núi mây rừng bầu bạn, cũng như ông vậy thôi. Cây sa mu to lớn thế mà giờ cũng nhỏ xíu phía sau lưng ông. Thi thoảng ông ngoái đầu nhìn lại, cây sa mu chỉ còn là một cái bóng nhỏ khuất dần sau rặng núi. Trước kia, mỗi khi đi nương về ông lại dừng chân nghỉ ngơi dưới gốc sa mu, tâm sự với nó những chuyện không đầu không cuối, giờ đây chỉ còn con Mực là bạn với ông thôi, nghĩ thế ruột gan ông buốt nhói.
Đôi mắt đục mờ, có lúc nhìn trân trân một điều gì đó như thể thôi miên. Bọn trẻ chúng tôi rất sợ mỗi lần nhìn vào đôi mắt ấy, chiều chiều khi chúng tôi muốn ra bãi đất trống để đấu con quay, chơi trận giả đều phải qua cổng nhà ông và dường như lần nào cũng gặp một dáng người nhỏ bé ngồi vót tre đan coong khẩu bán, lũ trẻ nhìn nhau ù té chạy.
Hiền và ít nói đấy là người lớn nói về ông nhưng chúng tôi nhận ra là ông rất quý trẻ con tụi tôi. Có lần ông bảo nếu còn sống thì con trai ông cũng tầm tuổi chúng tôi, quả chín trong vườn ông đều dành cho lũ trẻ. Dành dụm những đồng tiền nho nhỏ từ việc đan coóng khẩu thuê, ông mua cho chúng tôi những thanh kẹo lạc, những gói mì tôm. Nhận những thứ quà nhỏ nhắn từ ông đứa nào đứa ấy xoè tay ra xin mà bộ dạng cứ lấm la lấm lét. Tôi vẫn nhớ hôm ấy đang chơi đấu quay ở bãi đất trống bất ngờ trời nổi cơn giông, mây kéo về xám xịt bầu trời, đang mải cãi nhau chưa phân thắng bại, những giọt mưa ào ào dội xuống, vội vàng túm tụm tìm dép chạy về. Vẫn dáng người nhỏ bé nước da sạm nắng ấy, ông đứng ngoài cổng gọi cả đám trẻ vào nhà cho khỏi ướt rồi lễ mễ bê ra một rổ khoai luộc, đang cơn đói lũ chúng tôi ngấu nghiến ăn. Khi ấy chả đứa nào còn thấy sợ sệt mà cứ tự nhiên như ở nhà mình, lúc đầu còn nói thì thầm với nhau chỉ sau mươi phút thì ầm ĩ cả lên, tranh nhau miếng khoai cuối cùng. Với ông, lũ trẻ chúng tôi là bạn vừa là người thân, dạy chúng tôi chơi con quay, dạy chúng tôi đánh đàn tính tẩu, mấy ông cháu rôm rả trò chuyện át cả tiếng mưa. Trời tạnh, bụng đã ấm lũ trẻ chào ông ra về.
Bóng tối bủa vây khi chỉ còn lại một mình, con Mực nằm cuộn tròn bên cạnh, ông ngồi phệt xuống nền nhà ẩm ướt tựa lưng vào cửa, bình hoa chuối rừng vẫn đang khoe sắc thắm đỏ tươi. Với ống rượu trên chiếc bàn tre, ông ngửa cổ tu ừng ực, uống như chưa từng uống. Uống nỗi đau, uống nước mắt, uống cả những nhớ thương luôn day dứt trong lòng. Mắt dõi xa xăm mường tượng về người vợ trẻ, người ấy của ông ủ rượu men lá rất ngon, nức tiếng cả bản. Người vợ đã mang theo một nửa linh hồn của ông trong một chiều mưa tầm tã. Vẫn nguyên vẹn trong ông cơn mưa ban chiều định mệnh ấy, khi trời sâm sẩm tối mãi chưa thấy người về, sốt ruột ông cầm theo con dao chặt tre lao về phía nương ngô, con Mực cũng đội mưa chạy theo, ông vừa đi vừa chạy. Đầu ông nảy ra biết bao câu hỏi, có chuyện gì xảy ra với vợ ông không, vừa chạy vừa gọi, vừa gọi vừa khóc. Đáp lại lời gọi của ông chỉ có tiếng mưa lẫn vào tiếng những con cuốc gọi bầy. Từ xa ông nhìn thấy chiếc khăn piêu cũ của vợ vẫn đội hàng ngày đang bay theo chiều gió thổi, ông gào thét vang cả núi rừng.
Phía núi ngay dưới gốc cây sa mu, vợ ông người tím tái nằm bất động, bó rau dớn rừng trong tay nát nhàu, dòng máu loang lổ bởi nước mưa như đang tắm cho đứa con dây rốn vẫn đang cuốn loằng ngoằng bên người mẹ. Tim ông cũng như ngừng đập, cởi vội chiếc áo trên người mặc dù cũng chẳng khô gì, tay run cầm cập ông nhẹ nhàng lau cho thằng bé, ôm vợ con vào lòng ngửa mặt lên trời mà gào mà khóc, mà trách than. Những giọt mưa táp vào mặt ông, tiếng đêm than thở cùng ông, gió vẫn vần vũ, hàng chuối rừng dưới chân núi khoe những bông hoa đỏ chót dưới mưa. Những bông hoa chuối kia, dòng máu loang lổ dưới chân ông cũng giống ngàn ngàn giọt máu đang rỏ ra từ trái tim ông nhức nhối. Vợ ông rất thích hoa chuối rừng, mỗi dịp tết đến nhà ông luôn có sẵn vài cái chum nhỏ để cắm mấy bông hoa chuối, mấy cành đào đón xuân, giờ người nằm đây khi xuân về hoa cắm ai ngắm đây hỡi trời.
Mở cánh cổng bước vào nhà, mắt ông Dự hoa lên. Bếp nhà ông ai nhóm lửa mà vương sợi khói, con Mực nằm cuộn tròn trong cái ổ rơm nơi cửa bếp. Có phải vợ ông đang ngồi xe chỉ phía góc hiên nhà, đúng là vợ ông rồi, gương mặt hiền lành đôi tay thoăn thoắt. Mùi cá nướng thơm quá, ôi cả mùi tỏi xào rau bí nữa, thơm nức luôn. Vợ ông xào rau bí rất ngon, ông cứ đùa vợ rằng chỉ duy nhất món rau bí xào tỏi của vợ là ông mê nhất nên ông quyết lấy bằng được cô gái người bản Nậm Vai đấy. Ánh nắng yếu ớt cuối ngày đang vội vàng buông nơi trên khoé mắt, vợ ông mỉm cười cầm chổi bước ra sân gần ngay cạnh ông nói cười. Thả vội bó cỏ trên lưng xuống đất, ông tất tả chạy vào sân nhà, hụt hẫng. Trời ơi, chỉ là ảo giác, chỉ là ảo giác thôi sao?
Ông lao ra khỏi nhà như một kẻ chạy trốn, ông chạy trốn chính mình, ông chạy trốn nỗi đau. Ông chạy trốn cả ánh nhìn sẻ chia của con Mực. Ông cứ đi, rừng sâu thăm thẳm, khi đôi chân đã tươm máu, người rã rời mỏi mệt, đôi mắt đã bị mờ. Dừng lại nơi có phiến đá nằm bên vực sâu, nghe như có tiếng ai đó gọi ông, là ai, vợ ông chăng?
Mình… ơi!… Nhìn xung quanh chẳng thấy bóng người nào cả, gió vẫn nhẹ nhàng ru những rặng cây, lá xanh miên man với những chùm hoa vàng óng. Ông Dự bứt mấy lá nhìn ngắm rồi chợt nghĩ, hay mình đi tìm hai mẹ con nó cho có vợ có chồng nhỉ? Ông sống một mình vậy thì đi cũng chẳng đau lòng ai cả. Bất chợt ông nghe văng vẳng tiếng thì thầm bên tai lúc xa lúc gần: “Sao bố Dự nó lại nghĩ đơn giản thế, được sống đã là một hạnh phúc, bố nó phải sống cho cả phần của hai mẹ con em chứ”. Ông Dự như bừng tỉnh, vò nát nắm lá trong tay từ từ thả xuống vực, nước mắt bò lên trên gò má xương xẩu, lê đôi chân rã rời về đến nhà khi ánh trăng đã vượt quá ngọn sa mu.
Nỗi đau tột cùng ấy đã khiến ông thấy sợ mỗi khi trời mưa, trời mưa cơ thể ông như có ngàn vạn mũi kim châm. Giá ông đi tìm vợ sớm hơn, giá ông chịu khó quan sát biết vợ sắp đến ngày sinh, giá hôm đấy ông đi cùng vợ, thì biết đâu vợ con ông đã không xảy ra chuyện, biết đâu, biết đâu… Hình ảnh người vợ co quắp nằm bất động bên đứa con vẫn còn dây rốn luôn hiện về trong tâm trí . Ông thương vợ xót con cóng lạnh dưới mưa. Những bông chuối rừng ấy liệu có sưởi ấm nổi trái tim người vợ, che chở được cho đứa con trai tội nghiệp của ông không. Có những hôm đi làm nương, ông chẳng thiết về nhà, ăn tạm nắm cơm nguội trong coong khẩu, ông vật ra ngủ ngay dưới gốc cây sa mu. Ông thầm nghĩ, về nhà cũng có ai chờ, ai đợi ông đâu, vậy thì ngủ ở đâu chả thế!
Thời gian cứ ì ạch bước qua những niềm đau. Niềm đau ấy hằn in mọi nếp nhăn trên khuôn mặt già và đôi mắt càng thêm mờ đục. Con người ta rốt cuộc đau khổ cũng vẫn phải sống mà hạnh phúc thì cũng vẫn phải sống. Chỉ có điều mỗi khi trái gió trở trời nỗi đau tận tâm can lại hành hạ nhức nhối. Ông từ chối mọi sự giúp đỡ từ chính quyền địa phương, từ những nhà hảo tâm vào thăm biên giới. Ông bảo ông còn khỏe, ông vẫn nuôi được con gà con ngan, bản mình còn nhiều người khổ lắm, những món quà kia dành cho những người đau ốm hơn ông.
Dòng sông hôm nay thật tĩnh lặng. Con thuyền độc mộc lặng lẽ giữa dòng trôi. Dấu giày đã in hằn lên mảnh đất phù sa màu mỡ. Chân tôi bước trên con đường có hàng găng tím tỏa hương thơm mát dịu cả khoảng trời chớm hạ. Gió hất ngược mái tóc bồng bềnh, đâu đó những đứa trẻ đang nô đùa tiếng cười như vỡ cả không gian. Hình ảnh ngày xưa lại hiện về. Ngôi nhà nhỏ vẫn nằm sát ngay vườn lê sai trĩu quả. Thấy bước chân người, tiếng ho trong nhà như kìm nén lại. Tôi đẩy cửa bước vào, đặt túi quà lên bàn lặng lẽ đi ra phía giường ông nằm:
– Ông ơi, ông nhận ra cháu không ạ?
Ông ậm ừ, đầu gật gật, hướng đôi mắt đục nhìn hư vô.
– Nghe bước chân ông đã nhận ra rồi. Cháu là Chu hả, bố cháu khỏe không? Lâu lắm rồi còn gì, ông chẳng gặp lại ai.
– Bố cháu khỏe, chỉ mỗi cái đau xương khớp, ông ạ.
– Cháu về từ khi nào, về được lâu không mà có thời gian đến thăm ông. Quý tấm lòng của cháu quá.
Dừng lại vài giây để thở, ông Dự lại hỏi:
– Mà ông nghe nói cháu giờ làm ở đồn biên phòng à?
– Ôi sao ông biết thông tin nhanh thế ạ. Cháu mới chuyển về đồn một thời gian ngắn thôi.
– À, hôm trước có cán bộ xã vào thăm, các anh ấy nói ông mới biết. Mừng cho bố con cháu. Mà bao giờ cưới vợ đấy, liệu ông còn kịp uống rượu mừng không?
Ông Dự vui hẳn lên, dường như cơn hen cũng không phiền ông những lúc như thế này. Ông ôn lại những chuyện xa xưa của lũ trẻ chúng tôi, nghịch ngợm như quỷ sứ, ông kết lại một câu như thế.
Dưới tán cây sa mu, ông cháu tôi ngồi nướng cá, ôn lại chuyện xưa. Tôi rất thích cách ông ướp cá, không thể lẫn với ai. Vẫn công thức ấy, tôi ướp rất dở, hỏi ông có bí quyết gì, ông nheo mắt cười bảo:
– Chả có bí quyết gì sất, chỉ là ông ướp thêm tình yêu vào thôi.
Tiếng than nổ tí tách, rực đỏ bên hàng cây vẫn xào xạc gió trêm vòm cao những chú ve sầu đang ngân nga hát du dương. Bỗng giọng ông chùng xuống:
– Này Chu, ông vẫn muốn một lần trước khi về với tổ tiên được thăm chỗ bà nhà ông và đứa con trai nằm lại mà giờ ông già quá rồi, chắc không đi nổi nữa Chu à!
– Ông ơi, nếu ông muốn cháu sẽ đưa ông về thăm lại bản làng cũ của mình, nhưng ông phải ăn nhiều cho khỏe. Thu xếp công việc xong cháu vào đưa ông đi thăm mảnh đất kỷ niệm đó ông nhé.
– Thật hả Chu, bằng cách nào vậy cháu?
– Chúng ta đi thuyền trên lòng hồ ông nhé.
Ông Dự nhìn tôi với ánh mắt hiền hậu, toát lên niềm vui khi sắp được gặp lại ký ức của mình, chắc chắn ông sẽ mang về nơi ấy một bó hoa chuối rừng đỏ thắm.
***
Chào ông rồi mà tôi vẫn còn day dứt mãi về mảnh đất xa xưa. Nơi ấy tôi cũng có khá nhiều kỷ niệm. Nụ cười của mẹ vẫn còn lưu lại nơi căn nhà xập xệ. Bao năm trôi qua chưa một lần tôi gặp lại mẹ, cuộc sống của mẹ giờ thế nào tôi cũng không thể nào hình dung được. Tôi cứ vừa đi vừa tự hỏi, có khi nào mẹ về tìm bố con tôi không, có thể mẹ về nhưng nhà tôi chuyển đi rồi nên mẹ không gặp được, có thể thế lắm chứ. Nghĩ thế tôi thả hồn mình bay theo gió, gió núi len lỏi vào tim tôi như những cơn mưa xuân thật nhẹ, thật nhẹ.
PHẠM NGUYÊN ĐÀO

Bài viết liên quan


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.