NHÀ VĂN HÀ PHONG – VIẾT ĐỂ YÊU THÊM ĐẤT QUÊ MÌNH

Mỗi người có một cách riêng để thể hiện tình yêu của mình với quê hương, xứ sở. Với nhà văn Hà Phong thì tình yêu đó, anh gửi cả vào trong những trang viết. Đọc các sáng tác của anh, ta thấy hiển hiện ở đó miền đất Mường So, thấy thiên nhiên và tình người của miền đất gió Phong Thổ, của vùng đất đầy gian nan mà anh dũng, kiên cường – Lai Châu… Nếu như Cao Duy Sơn được gọi là nhà văn của mảnh đất Cô Sầu (Trùng Khánh, Cao Bằng), Nguyên Ngọc là nhà văn của núi rừng Tây Nguyên… Thì Hà Phong cũng xứng đáng được gọi là nhà văn của mảnh đất và con người Lai Châu.

Anh tên đầy đủ là Hà Mạnh Phong, sinh năm 1967 tại Mường So, Phong Thổ, Lai Châu. Anh tới với văn chương như một nghiệp duyên bên cạnh tài năng ngôn ngữ và xúc cảm trời phú. Tập tiểu thuyết đầu tiên, xuất bản năm 2009 (Vượt qua dãy Hoàng Liên) được nhận Giải B (không có giải A) của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Rồi như một lời động viên, chắp cánh cho hồn văn của Hà Phong thăng hoa trên cánh đồng văn hoá – văn học – nghệ thuật Lai Châu. Liên tục sau đó, anh mang đến cho độc giả các tập sách Bàng bạc mưa rừng (2010), Chim Tăng ló kêu tiếng buồn (truyện ngắn, 2014)… Ngoài ra, có thể thấy một Hà Phong ý chí kiên trì, căn bệnh nhược cơ khiến gần hai mươi năm qua, mọi hoạt động đều phải phụ thuộc vào người khác. Dường như mọi tâm huyết anh dồn cả vào góc bàn nhỏ với chiếc máy vi tính. Ở đó, sức viết, sức lao động nghệ thuật của anh được thăng hoa với các công trình sưu tầm, nghiên cứu, biên dịch văn hoá dân tộc như: Then Giáy, Từ vựng Thái trắng, Dân ca tình yêu Thái Mường So, Truyện thơ Thái (2016)…

 

*

*   *

Quê hương Lai Châu hiện lên trong văn Hà Phong đẹp bình dị, trong trẻo. Trong đó có nhiều hình ảnh của quá khứ, được tác giả nhìn qua nỗi nhớ, qua ký ức. Mà cái gì qua năm tháng còn giữ được chỉ có thể là thật sự ấn tượng. Đẹp thì đẹp vô cùng, mà đau thương, vất vả thì cũng vất vả vô cùng. Dường như những gì đẹp nhất của mảnh đất Mường So thời thơ ấu ấy đã đi vào sáng tác của Hà Phong. Dù có thể trong truyện được hư cấu thành những cái tên gọi khác như: bản Huổi Thẳm (Ám ảnh đất), bản Đán Đăm (Núi đợi), bản Phiêng Đao (Giấc mơ trên bãi ngàn sao)… Ghép lại những hình ảnh từ mỗi tác phẩm, ta có thể vẽ nên khung cảnh của bản làng: nằm yên bình giữa thung lũng; bên cạnh một bến suối mát dịu: Bến suối làm mặt gương soi bóng núi nghiêng lả dáng thuyền, soi bóng cây rủ lả dáng cành, dáng ngọn; một bến suối yên ả lững lờ chảy mà tan vỡ nắng (Bến suối), xa xa kia là những bãi cỏ xanh, xa hơn nữa là những rặng núi: Núi đã muôn năm già mà không cũ, vẫn bồng bềnh mây trôi lưng núi, vẫn áo cỏ non tươi mới như ngày nào. Ở lưng chừng núi là Những chân ruộng bậc thang xinh xắn, những nương ngô thoai thoải sườn non, con trâu nghiêng nghiêng cùng người xiết mũi cày liếm vào chân đá… Bản làng đó Có tiếng cối nước giã gạo thậm thịch đều đều êm ả, hội cát chăm ngày xuân rộn rã tiếng cười. Tiếng vó ngựa thanh bình dạo trên đường núi loà xoà mây trắng (Lắng lòng quê thương); có tiếng khèn – giai điệu hoang sơ, chơi vơi của rừng và núi.

Nơi miền biên cương ấy đẹp nhất khi xuân về. Tác giả vẽ bức tranh xuân bằng ngôn từ đậm chất thơ:  mùa đưa ta đi dạo khắp niềm vui, choàng khoác lên người ta những làn khăn gió ấm, mỏng, mỏng đến mức vô hình ta không nhìn thấy, và thì thầm bên tai ta những tiếng mầm non tách đất, tiếng lộc tơ cựa mình, nhỏ nhẹ, nhỏ nhẹ (Mùa xuân mở cửa sổ hoa và bướm). Mùa xuân trăm hoa đua nở có hoa ban thương nhớ “nở thành người con gái Thái”. Hà Phong còn hay tả vẻ đẹp của thiên nhiên, làng bản mùa thu: Thu bản mường thuần khiết ban sơ, đậm nét mơ màng của thu cổ điển, vạn vật xung quanh thân thiện, quấn quýt một màu vàng yên bình. Thu vàng mơ. Có chú sóc nhỏ mang trên mình bộ lông vàng xám, lanh lẹ tách mình trên cành cây sung già ven bản, thập thò qua kẽ lá nhìn thu; … Giữa muôn vàng thu ấy, sắc áo cóm trắng trông thật nổi bật, đấy, thu đang hoá mình vào dáng điệu sơn nữ múa toỏng loỏng (Thu sang rồi đấy). Đất mường ta vào thu đẹp bình dị, hiền hoà, con suối thong thả chảy men theo chân núi, nước trong như gương. Thật trữ tình và thơ mộng lắm thay.

Người mẹ thiên nhiên tươi đẹp ấy luôn giang tay chào đón những đứa con đầy vết thương lòng: Nước như mẹ dang cánh tay mềm mại, êm ái vỗ về. Nỗi buồn lao tuột xuống suối. (Sầm điên). Đến với bến suối, là ta trút bỏ áo quần phủ lấm bụi ố, trở về hình hài như ngày mới sinh, rồi để bến suối ôm vào lòng, hào phóng hát lên thịt da những lời ca của nước. Những lời ca êm, mát, nựng nịu, nâng niu, dịu dàng, mơn trớn, vuốt ve… khiến hồn ta trong phút chốc nhẹ bẫng như chiếc lá trên dòng (Bến suối). Cho nên, khi một phần thiên nhiên, quang cảnh ấy mất đi thì Hà Phong tiếc lắm, nhớ lắm: mỏi mắt tìm khắp các sườn non, vắng hẳn bóng những nương chàm biếc xanh màu lam ngọc, đều tăm tắp như trải thảm.

Qua sáng tác của Hà Phong, ta có thể hình dung được bức tranh sinh hoạt bình dị, đơn sơ của người dân nơi đây: Cứ thế, ngày nào cũng vậy, ngày không đi nương, không đi củi thì tẽ ngô, xay ngô, luộc ngô, đồ mèn mén, nấu rượu… Tối cơm xong lại xe lanh, thêu váy tận khuya… Người phụ nữ Mông ngồi như thách thức thời gian, nhẫn nại, bền bỉ, thêu nên những hoa văn thổ cẩm mang hồn cây, hồn lá… Tới tháng Giêng, là mùa của lễ hội. Trong ngày hội được nắm tay bạn bè, người thân, người yêu,… cùng đi giữa xuân, cùng hát dân ca, cùng khắp báo xao dưới bóng hoa mơ, hoa mận, hoa đào, cùng in những dấu chân lên cỏ mềm non xanh, và cùng nhìn ngắm muôn vàn sắc lung linh của cánh hoa và cánh bướm thật vui sướng vô cùng. Còn hình ảnh nào mê đắm hơn hình ảnh thiếu nữ lưng eo thon, áo cóm cúc bạc, thắt lưng xanh, váy buông chùng tha thướt, duyên dáng tung trái còn giữa chốn trập trùng mây nước. Vào đầu xuân nhàn rỗi, lễ hội cát chăm (bắt cá suối) vui nhộn bên bến suối. Tác giả còn kể về những đám cưới giản tiện, toàn món đặc trưng rừng núi; tả những chợ phiên, chợ rừng thật thú: người mang đồ tới chợ bán, kẻ đi chợ chơi, thưởng thức cái bánh, bát phở, người tới hẹn hò, bắt vợ… Cuộc sống giản dị, chất phác mà đầy chất thơ.

Nhà văn Hà Phong

           Đọc Hà Phong, thấy chất chứa rất nhiều văn hoá của tộc người nơi tuổi thơ anh sống. Mọi thứ trong huyết mạch cứ tự nhiên hiện lên qua ngòi bút. Nhiều người đều sống trong không gian văn hoá ấy. Nhưng phải là người có tình lắm, quan sát kĩ lắm, yêu thương, nhung nhớ quê cũ nhiều lắm thì mới miêu tả được chi tiết đến vậy…

Hà Phong tự hào về văn hoá ẩm thực Thái. Và anh viết nhiều về nó với tất cả sự nâng niu, không xô bồ, phàm tục. Món nào anh cũng kể từ sự chuẩn bị kĩ lưỡng; rồi tả tỉ mỉ cách làm món ăn; thành quả món ăn có hương, vị, màu sắc như nào; ăn kèm với gia vị gì, cách thưởng thức ra sao… Mọi cái đều rất đẹp, rất chậm, rất khiến cho người đọc vừa khát thèm vừa trân trọng. Anh xa thương nhớ các món quê rừng: canh cà đắng thoảng hương gừng, măng đắng ăn ghém với lá phắc mạ; rau sắn trộn quả cà dại; ốc thu suối mường xào; hoa bí xào tỏi; xôi đồ lá nếp; bánh chưng đen núc nác; các món rong rêu… Bao nhiêu tên gọi là bấy nhiêu tình yêu của nhà văn. Chúng được tả cùng với tình yêu, cảm xúc háo hức, thương mến do mẹ hay người thân chế biến… Hà Phong phân biệt những nét rất riêng của món ăn dân tộc mình, không lẫn với cái gì na ná: bánh chưng đen thì nhân được trộn gia vị của rừng là thảo quả chứ không phải hạt tiêu, còn hạt gạo thì đã được nhuộm đen nhánh bởi bột than của cây núc nác (chứ không phải bằng gạo cẩm, hay nhuộm gạo bằng tro rơm). Món ăn người Thái có nhiều đồ đắng lắm nhưng vừa mới thấy chút đăng đắng trong miệng thôi đã lại thấy vị ngòn ngọt nơi cổ họng. Chà chà! Cảm giác dễ chịu hẳn. Những hương vị được miêu tả vừa chân thực, vừa trong cái nhìn trìu mến của tác giả: Thanh tao quyến rũ là hương nếp nương; mát dìu dịu là mùi lá dong; nồng nàn chứa chan là mùi thảo quả; phảng phất hương mật ứa của cỏ cây tươi sém lửa vào mùa đốt nương rẫy. Không it lần Hà Phong khẳng định: Chính cảnh sắc và tình người chốn non ngàn mới giúp cho món ăn có ma lực đến vậy. Rõ ràng món ăn ngon còn là ở tình cảm, tinh thần.

Cảm xúc của người thưởng thức luôn đầy trân trọng. Nhìn mọi người ăn, có cảm giác như đang thực hiện một nghi lễ ẩm thực. Những ngón tay trịnh trọng mở lọc phắc mạ ra, cẩn thận đặt vào đó một miếng măng, khéo léo cuốn cho lộc phắc mạ non tím hồng ôm trọn miếng măng tráng bóc, từ từ quệt vào bát đậu phụ nhự (Măng đắng, phắc mạ); Mỗi khi ăn, ta nhai chậm rãi như đang nhấm nháp vào kỉ niệm… Những món ăn dân dã thôn quê luôn là một phần kí ức của Hà Phong cho đến mãi sau này. Cho nên, anh hay nói tới “nỗi nhớ quắt quay”, “nỗi nhớ cồn cào”… Cả một trời kỉ niệm, cả một trầm tích văn hoá ẩn chứa dưới những hương vị đơn sơ – nhưng nguyên liệu đều của mảnh đất ấy, phù sa ấy, núi đồi ấy. Thương yêu vô cùng.

*

          Dù đẹp tươi là vậy, mà mảnh đất quê hương Lai Châu khi xưa cũng có  khi đầy lam lũ trong tác phẩm của Hà Phong. Anh ám ảnh lắm những cơn mưa rừng, lũ quét mỗi khi hè tới cuốn trôi nhà cửa, ruộng vườn, sinh mạng: Lũ trước chồng lên lũ sau; con đê oằn mình chống chọi; Ngoài sông, sóng lớn chồm lên như ngựa vía; lúa đồng không kịp gặt, chìm nghỉm dưới mênh mông nước đỏ (Tháng sáu mùa mưa); Mưa dai dẳng, mưa bạo liệt dữ dội. Mạch đất đứt, long từng tảng, bục từng tảng lở trôi ầm ầm theo nước, thành bùn đổ ập xuống những ruộng bậc thang. Lúa sắp được gặp, chới với vô vọng ngập trong bùn. (Ám ảnh đất)

Khắc nghiệt lắm thay. Mùa đông lại thiếu nước:  Bản Tẹo đất rộng, người thưa, cuộc sống khắc nghiệt, quanh năm thừa đá, thiếu nước (Gió lay hoa mận). Có những vùng núi cao, đá dựng: bước chân ra khỏi cửa là chạm núi và mây, mặt đất chỗ nào cũng nghiêng nghiêng thử thách, lưỡi cày len lỏi trong đá… Cho nên: mất mùa, trái ngọt bỗng chốc hoá thành trái đắng. Những hạt cát nghèo lúc nào cũng như muốn len vào trong ta. Bản Phiêng Đao nghèo lắm – đến mức con bọ hung không chịu được, chỉ muốn chuyển tổ đi nơi khác; bản Tẹo khổ, khổ, khổ đến nỗi không khổ nữa. Những đứa trẻ nghèo không quần áo rét, ăn củ sắn, củ mài và gói ớt giã muối mang theo bốn mùa tới lớp. Có lúc ngất xỉu giữa lớp nên thầy giáo Sa Sa lại nấu vội bát cháo loãng (Bàng bạc mưa rừng); Bé Nhủm tới lớp với cái túi sách được khâu từ hai mảnh ống quần thấm đẫm mùi măng chua (Giấc mơ trên bãi ngàn sao).

Quê mình còn khó khăn, gian khổ lắm. Nên trong cảm thức của Hà Phong còn bao nỗi trăn trở. Sao cho dân mình bớt nghèo, bớt khổ.

 

*

*    *

          Cuộc sống khốn khó là vậy, nhưng đọc văn Hà Phong không làm người ta nhụt chí. Anh nhẹ nhàng reo rắc vào lòng người niềm tin và hi vọng. Có nhiều lẽ để ta hi vọng lắm. Đầu tiên là bản tính kiên cường mạnh mẽ của người dân xứ núi. Muôn nỗi vất vả thôi bạc manh áo, vậy mà nụ cười lúc nào cũng sáng bừng trên khuôn mặt người dân quê ta. Tiếng khèn vẫn đầy khát khao và dào dạt sức sống. Đến cỏ cây ở đây cũng như người: Mùa đông dù lạnh giá khắc nghiệt đến mấy, thì hoa cà đắng vẫn cứ ngạo nghễ tím;        Cải ngọt tựa như người dân bản Tẹo, sống bám vào đá nhưng vẫn mơn mởn, hắt xanh lên cả bầu trời. Họ chỉ có bàn chân trần thôi, nhưng bám chặt lấy đất quê như bộ rễ biết đi, với niềm tin sắt son rằng: khắc đi, khắc đến. Bộ rễ kiên trì bám vào nương dốc: sẽ có ngô ra bắp, kết hạt; bám vào ruộng bậc thang: sẽ có lúa lên; chạm vào đá cứng: đá cứng hoá mềm… Họ nhọc nhằn bám vào đất đá để mưu sinh nhưng không ai nản, vẫn luôn bước với những bước chân mạnh mẽ, vô tư khà khà cười rung lá rừng, và tin rằng rồi đây sẽ tạo dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bên cạnh niềm tin, ý chí kiên cường, con người nơi đây cũng giàu tình yêu thương với nhau lắm. Các nhân vật trong truyện của Phong đều có cái tâm tốt lành. Hà Phong là người nhân văn, hướng thiện. Anh học được từ người mẹ bao dung, biết mở rộng lòng cảm thông, chia sẻ, đừng bao giờ bất nhẫn, giả vờ… Mẹ luôn là nắng ấm giữa mùa đông, cho con rất nhiều nghị lực, rất nhiều yêu thương.

Người đọc thấy trong truyện của Hà Phong nhiều số phận éo le. Đầu tiên là người phụ nữ miền cao: người phụ nữ Thái cả đời hi sinh: bá dâu tôi là một phụ nữ Thái điển hình, lam lũ tất bật, cả đời không một lần mặc quần âu,… (Măng đắng); người phụ nữ Mông lấy chồng từ khi mười hai, mười ba tuổi Làm từ sáng đến tối, làm quần quật như trâu, thồ như ngựa… Lúc nào vợ cũng chỉ là cái bóng của chồng, Cả đời nhẫn nhịn: làm như trâu, thồ như ngựa. Khổ, khổ đến tận cho hết thời đầu phơ tóc bạc.  (Ngước mặt nhìn ngô).

Một nhóm nhân vật nữa Hà Phong thương cảm là người già và trẻ em. Họ cực khổ lắm mà nhân hậu, hiền lành lắm. Họ chẳng có tài sản gì giá trị, nhưng có trái tim vàng. Lão Nhân bản Tẹo trong Gió lay hoa mận cả đời ki cóp mới mua được con ngựa quý. Nhưng ông cũng sẵn sàng bán rẻ đi để cứu sống và nuôi mẹ con Thương sa cơ lỡ bước. Giúp người không đòi trả ơn. Dù người đời có nói:  lão vắt kiệt sức nuôi người dưng mà chẳng được gì. Nhưng khi cô gái phải trở về quê hương, ông dù qua đời trong cô đơn cũng vẫn thanh thản như ngủ, môi  phảng phất nụ cười. Cũng thế, lão Hom trong truyện Giấc mơ trên bãi ngàn sao nghèo nhất bản Phiêng Đao. Ông chỉ kiếm sống bằng nghề đan lồng gà bán chẳng được bao nhiêu tiền. Con trai thì mất. Nhưng ông vẫn quyết định nhận nuôi cô bé Nhủm mồ côi cả cha lẫn mẹ. Dù mọi người ái ngại, con dâu là Hạnh không bằng lòng vì khổ quá rồi.

Con người trong truyện của Hà Phong nhân hậu và giàu tình yêu lắm. Thương bị đe doạ tính mạng, cả bản Tẹo da vàng, mặt gầy, mắt lồi, gân xanh nổi, chân tay khẳng khiu như cành khô xin bác sĩ cho máu cứu sống cô. Huyết mạch của cô giờ chứa cả máu người dân bản Tẹo. Hoặc như vợ chồng nhà chị Côi hàng xóm chỉ là người dưng thôi nhưng lại đối đãi với bà Lãng đơn chiếc bằng tấm lòng của những đứa con (Hời ru trong mưa). Nhân vật của Phong có khi không đẹp về hình dáng, thậm chí trong mắt người khác chỉ là người điên lang thang, có nụ cười ngờ nghệch, ánh mắt sợ sệt canh chừng, bị trẻ con đùa cợt, xua đuổi, bị chủ tiệm vàng kì thị như Sầm điên nhưng anh vẫn cao thượng lắm, vẫn dám nhảy xuống dòng nước sâu nguy hiểm mà cứu đứa con trai quý tử duy nhất của chủ tiệm vàng (Sầm điên)…

Càng đọc càng thấy, Hà Phong trọng nhân tình lắm. Bao nhiêu câu chuyện đời đều chỉ để gửi đi một thông điệp: Hãy trao nhau yêu thương để tạo phép nhiệm màu.

 

*

*    *

 

Mượn lời văn của Hà Phong để nói về tình cảm với mảnh đất Lai Châu nói riêng, Tây Bắc nói chung: Tây Bắc yêu thương mãi không hết. Thương lửa bếp toả ấm dưới mái nhà sàn buổi chiều đông. Thương hương cốm bay mùa nếp thơm tháng chín. Thương hoa chuối rừng trổ đỏ thắm lối ta đi qua. Thương điệu múa tỏ ong lỏ ong nhịp đôi, nhịp ba. Thương bến suối có mế già, có em gái nhỏ hái rêu (Cau trầu ở lại chẳng về xuôi). Chính vì vậy mà tác phẩm của Hà Phong còn nặng một nghĩa tình: Ta lắng lòng để tự hỏi ta đã làm gì cho quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của ta, nơi ta từng nhận được rất nhiều ân tình sâu nặng? Đời người trôi giọt nước, chẳng ai bắt ta phải trả nợ nghĩa, nợ tình. Nhưng vì thế mà ta lại càng cảm thấy mình là người mang nợ. Và anh viết để trả những ân tình. Trong đó anh lấy gia đình người thân, quê hương bản quán mình mãi mãi là cội gốc. Quê hương chính là nơi anh đã gửi trao lời hẹn thuỷ chung như trái sấu rơi vào nước ba năm vẫn còn tươi nguyên, không hỏng. Văn của Hà Phong vì vậy mà sâu lắng, nghĩa tình lắm thay!

Thùy Giang

 


Bài viết liên quan


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.