“Người gieo chữ” ở Nậm Cha

Những năm trước đây, một ngày đến trường của các em học sinh trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Trung học cơ sở (PTDTBT THCS) xã Nậm Cha, huyện Sìn Hồ khá vất vả bởi quãng đường hàng chục km từ nhà tới trường. Đã có nhiều em bỏ dở giữa chừng ước mơ đèn sách. Từ khi thực hiện mô hình trường bán trú, các em được hỗ trợ ăn, ở tại trường, được học tập, trải nghiệm, được giáo dục kỹ năng sống… Từ mô hình trường học bán trú đã giúp học sinh vùng cao yên tâm đến lớp, chất lượng giáo dục ngày một nâng lên.

 Xã Nậm Cha, huyện Sìn Hồ có 7 bản, với 750 hộ, gồm hai dân tộc chính là Mông và Dao. Trước đây người dân Nậm Cha sinh sống quây quần hai bên bờ suối Nậm Mạ. Theo chương trình Tái định cư (TĐC) thủy điện Sơn La, giờ suối Nậm Mạ thành lòng hồ mênh mông. Nậm Cha nay giáp vùng hồ sông Đà, ngoài đường bộ, vùng này có bến xuồng tấp nập ngược xuôi thuyền bè. Nhờ có đường thủy nên bà con các bản, các xã trong vùng, thậm chí người thân ở tận Quỳnh Nhai (tỉnh Sơn La) cũng thường xuyên ghé thăm. Tuy là xã được thụ hưởng một phần từ chương trình TĐC, đời sống người dân có nhiều đổi mới nhưng Nậm Cha vẫn là xã vùng ba khó khăn, cách trung tâm huyện biên giới Sìn Hồ hơn 80km.

Các em học sinh tăng gia ngoài giờ học

Với nụ cười chất phác, thầy Vũ Văn Dương – Bí thư Chi bộ, Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú (PTDTBT) THCS xã Nậm Cha đón chúng tôi tại bến xuồng Pa Há. Chiếc xuồng máy của ngư dân Lý Văn Hạc lắp động cơ máy nổ, gắn chân vịt quay tít mù, đạp nước đẩy thuyền rẽ sóng ra khơi. Thuyền chạy êm ru trên mặt hồ xanh biếc. Đoàn chúng tôi say sưa chụp hình check in, Lý Văn Hạc chỉ tay xuống mặt hồ giới thiệu: “xưa kia làng bản ở hết dưới này, sau TĐC, di dân lên vùng mới, giờ thì thành lòng hồ cả”. Anh Hạc có con trai đang học bán trú tại trường thầy Dương nên là chỗ quen, vốn thạo sông nước, nhiệt tình, hễ nhà trường có công việc chỉ cần gọi là anh có mặt ngay. Nước hồ mùa này trong xanh, thuyền cứ đi, vạn vật xung quanh đôi bờ vun vút chạy trong mắt chúng tôi, có những đoạn nước rút, lộ thiên cả con đường mòn xưa hay những mố cầu treo trước kia vẫn còn dấu tích. Mặt hồ mênh mông như một chiếc gương khổng lồ, thi thoảng, một vài ngư dân thư thái chèo thuyền độc mộc, buông lưới thả câu… một cuộc sống thật đẹp, bình yên thơ mộng.

Qua câu chuyện, chúng tôi được biết hiệu trưởng Dương quê Hưng Yên. Thời còn sinh viên khoa ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, một lần anh theo bạn lên Tây Bắc chơi. Mùa đông nơi đây lạnh như cắt da, cắt thịt mà những đứa trẻ miền rừng chỉ mỗi manh áo mỏng đã ám ảnh chàng sinh viên. Năm 2001, sau khi tốt nghiệp sư phạm, anh tình nguyện lên Lai Châu công tác. 20 năm gắn bó với giáo dục vùng cao có biết bao kỷ niệm buồn vui của người giáo viên xa nhà, giờ anh là con em của bản từ lâu rồi.

Mỗi khi có dịp cùng đồng nghiệp hàn huyên, chưa khi nào thầy Dương quên được cảnh sau tết, lúc giáp hạt hay mùa làm nương mà các anh vẫn đùa là “mùa vận động”. Bởi thời gian này, phần lớn giáo viên về bản giúp bà con, vận động học sinh ra lớp. Câu nói của bà con vùng này “cái chữ không làm ra ngô, ra gạo” đã thành câu cửa miệng mỗi khi có thầy, cô đến nhà. Nhớ ngày mới về nhận nhiệm vụ, có hôm cám cảnh mang cặp lên lớp vắng tanh, thế là thầy cô lại liềm hái lên nương, khi nào gặt xong thì mới đón học sinh ra. Và những phong tục, tập quán của bà con như trong một năm rất nhiều, thầy cô vào khi nào cũng thấy cảnh rượu chè liên miên. Có đợt, cứ tối đến, thấy thầy Dương xách can rượu vào bản. Có người xì xào, rằng anh nghiện rượu, khi được hỏi, Vũ Văn Dương chỉ cười cười. Hẳn nhiên việc vào bản uống rượu chỉ là cái cớ để anh được ngồi cùng bà con, để tâm sự, khi người bản đã ưng cái bụng, quý cái chân rồi thì nói gì cũng nghe, cũng thuận.

 Học sinh của trường học nhóm sau giờ học chính khóa.

Được biết, năm 2013, Nậm Cha bắt đầu thực hiện mô hình trường bán trú, “vạn sự khởi đầu nan” với bộn bề khó khăn, từ phòng ở, bếp ăn và đặc biệt là nếp sống xa nhà chưa quen với các em. Nậm Cha là xã có nhiều bản xa, đi lại khó khăn, có bản cách trường hai chục cây số như Nậm Pẻ, Ngài Chồ, Nậm Chăng… nên chỉ chuyện đến trường về nhà hằng ngày với các em cũng là cả một vấn đề. Trưởng bản Nậm Pẻ – Chang A Quang, người đồng hành với các thầy cô hàng chục năm nay trong sự nghiệp đưa chữ về bản. Nhớ ngày đầu thực hiện trường bán trú, tâm lý học sinh về học tập trung còn bỡ ngỡ, nhiều đêm trưởng bản Quang cùng các thầy cô đốt đuốc tìm trò, có khi thông đêm, phải khi nào thấy các em mới an tâm. Bên ấm trà rừng nóng hổi, trưởng bản Quang trải lòng: “Phải thú thực, những năm trước đây, việc học hành của con em chưa được bà con quan tâm. Tâm lý người dân không muốn cho con em đến trường. Nhiều người cho rằng, việc “học” là của chính quyền, của thầy cô, nên tình trạng tảo hôn, tỷ lệ bỏ học còn cao. Cùng với sự nỗ lực thầy cô, sự quan tâm của các cấp chính quyền trong việc đưa con em ở bản xa về ăn, ở, tại trường, giờ thì bà con Nậm Cha đã hiểu, đã thông”.

Còn với thầy Nguyễn Như Ý – Phó Hiệu trưởng nhà trường, người có hơn 20 năm mòn gót trên những cũng đường đèo núi, tuổi trẻ của anh dâng hiến cho sự ngiệp “trồng người”. Mỗi khi nhắc chuyện về bản dạy chữ, thì bao kỉ niệm trong anh lại ùa về. Đó là kỉ niệm những ngày mới lên công tác, lớp học ngày ấy là những gầm nhà sàn của bà con người Thái. Rồi cảnh chèo thuyền vượt suối Nậm Cha, Nậm Mạ đón học sinh đi thi, cảnh vượt suối trong mùa lũ đón giáo viên mới… Thầy Ý cho biết: Từ khi triển khai mô hình trường học bán trú, tỷ lệ học sinh chuyên cần đến lớp của nhà trường đạt trên 95%; không còn cảnh giáo viên phải đến nhà vận động học sinh ra lớp như trước. Tỷ lệ học sinh nữ học hết lớp 9 và học lên THPT cũng tăng lên.

Rồi thầy Ý đưa chúng tôi “mục sở thị” mô hình tăng gia của học sinh bán trú phía sau trường, có chuồng nuôi lợn thương phẩm, ao thả cá, và vịt đẻ trứng. Sau giờ lên lớp, thời gian còn lại các tổ, nhóm thay phiên nhau tăng gia. Cũng từ mô hình này, các em được thực hành trang bị những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp. Nhóm chăn nuôi của em Phàn Thị Nụ, lớp 8A, miệng nói, tay thoăn thoắt thái chuối, nấu cảm, trộn thức ăn cho cá, vịt, mỗi người một việc. Từ bãi đất trống um tùm cỏ dại, nay dưới bàn tay các em được cải tạo thành những luống rau xanh tốt, với đủ các loại rau, củ quả theo mùa như: bí đỏ, đậu cô ve, đậu đũa, cải thìa, cải ngọt, cải canh, rau muống… Em Nụ cho biết, ngoài tổ chăn nuôi, trồng trọt, chúng em có tổ chuyên làm giá đỗ vừa cung cấp cho nhà trường, vừa bán ra thị trường gây quỹ lớp.

Năm học 2020 – 2021, Trường PTDTBT THCS xã Nậm Cha có 307 học sinh, đều là con em đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó học sinh bán trú của nhà trường hơn 194 em. Hiện nay, nhà trường có 10 phòng ở nội trú và 1 nhà ăn, như vậy bình quân gần 20 em/phòng. Cơ sở vật chất còn thiếu thốn, nhà trường giành 2 lớp học làm phòng ở cho học sinh. Các phòng học được trang bị hệ thống giường tầng, tuy chất chội, nhưng khá ngăn nắp. Đã gần ba năm nay, căn phòng nội trú số 2 gồm 2 dãy giường tầng từ lâu trở thành ngôi nhà thứ hai của các em: Giàng A Chớ, Lý A Ghềnh, Chang A Mạn lớp 9A1. Học sinh ở đây vẫn bảo, Chớ và Ghềnh là sướng nhất, thì ra họ là đôi bạn thân sống cùng bản tử nhỏ. Còn Chang A Mạn, dân tộc Dao, bản Nậm Pẻ cách trường 20km, đường hẹp, dốc đá cheo leo. Mạn tâm sự: “Về ở nội trú, em được nhà trường, các thầy, cô chăm sóc từ bữa ăn, giấc ngủ cho đến việc học hành. Phòng ở được xây dựng khang trang, sạch sẽ, đủ chăn ấm cho mùa đông. Bởi vậy, chúng em rất vui khi được sống và học tập ở đây”.

Em Lý Thị Độn lớp 8A1 có gương mặt sáng, nụ cười tươi như hoa. Với thành tích học tập, Độn là niềm tự hào của trường, sự hãnh diện của các bạn nữ, sắp tới em đại diện cho trường tham dự kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh môn Vật lý. “Ngoài những giờ học chính khóa, chúng em được tham gia nhiều hoạt động: thể dục thể thao, các trò chơi dân gian, sinh hoạt văn nghệ, tìm hiểu các chủ đề lịch sử địa phương qua các buổi ngoại khóa của hoạt động đội. Mỗi khi về bản em lại nhớ trường, nhớ thầy cô, các bạn. Ở nội trú tuy xa gia đình, nhưng ở đây chúng em học được nhiều kỹ năng về giao tiếp ứng xử, quan hệ xã hội” – Độn bộc bạch.

Được biết theo chế độ học sinh trường bán trú, được nhà nước hỗ trợ theo Nghị định 116. Theo đó, hàng tháng các em được trợ cấp 40% lương cơ bản, kèm 15kg/tháng. Nhờ mô hình này, sau mỗi buổi tan học thay việc phải về bản trên những con đường xa xôi thì nay các em đã được ở lại ngủ, học ngay tại trường trong những căn phòng ấm cúng và chỉ về nhà vào ngày cuối tuần. Có mặt tại bữa cơm trưa, sau hồi trống tan trường, các em nhanh chóng thực hiện công tác vệ sinh, rồi mỗi bạn một tay phụ giúp thầy cô tổ nhà bếp việc sắp bát đũa, chia cơm. Bữa ăn khá tươm tất, có rau, thịt, trứng, phần lớn những sản vật do chính tay các em làm ra.

Khi có đồng nghiệp muốn tìm hiểu về trường mình, thầy Nguyễn Thanh Luận – Phó Hiệu trưởng, phụ trách công tác bán trú trăn trở: “Tiếng là trường bán trú, nhưng thực tế, các thầy cô giáo nơi đây tổ chức hoạt động như trường nội trú. Sau giờ học chính khóa là các hoạt động học văn thể, thời gian còn lại các em được giáo viên hướng dẫn kỹ năng làm vườn, chăn nuôi và kỹ năng sống. Từ học một buổi trên ngày, đến nay học sinh bán trú được học ba buổi trên ngày. Buổi sáng và buổi chiều học chính khóa trên lớp, còn buổi tối các em tự học trên lớp dưới sự quản lý và hường dẫn của các thầy cô”. Nói như Bí thư Đảng xã Nậm Cha – Phàn A Phúc: “Giáo dục Nậm Cha được như hôm nay là sự quan tâm các thầy cô đã nắm bắt kịp thới những chính sách hỗ trợ của Đảng, nhà nước giành cho con em đồng bào dân tộc thiểu số”.

Phía kế bên nhà ăn là phòng ở của vợ chồng thầy giáo trẻ Phạm Văn Pháo. Năm 2014, tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh Hưng Yên, Pháo tình nguyện lên huyện Sìn Hồ công tác. Mới đầu cũng bỡ ngỡ, nhưng nhìn các anh, chị thế hệ trước xây dựng gia đình, sinh con lập nghiệp Pháo thấy vui vui. Sau những đêm về bản vận động học sinh, những ngày cùng bà con gặt lúa, kéo vó, quăng chài và rồi anh đã bén duyên với cô sơn nữ người Dao nơi đây. Ngôi nhà hạnh phúc, là căn phòng tập thể dành cho đôi vợ chồng trẻ. Chính căn phòng này là minh chứng biết bao thế hệ, bao cặp đôi đã nên duyên. Tuổi thanh xuân của họ đã dâng hiến cho miền đất này, cho những chuyến đò thầm lặng…

Chiều hồ sông Đà sóng vỗ mênh mang, chia tay thầy cô và các em học sinh Nậm Cha, trong chúng tôi ai cũng nao nao cảm phục. Vẫn biết, giáo dục vùng cao còn nhiều khó khăn, vất vả, nhưng bằng tinh thần trách nhiệm nghề giáo, các thầy cô luôn cháy hết mình cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Nếu như ở thành phố, thị xã có biết bao ngôi trường khang trang, hiện đại, đầy đủ phương tiện dạy học thì nơi bản làng xa xôi, ngày ngày vẫn thầm lặng những bước chân kiên trì cắm bản, từng bước đưa chất lượng giáo dục kiến thức, kỹ năng sống cho học sinh dân tộc thiểu số để hoàn thành tốt nhiệm vụ gieo chữ nơi rẻo cao biên giới.

HÀ MINH HƯNG

 

 


Bài viết liên quan


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.