Mặt trời đã chạm đỉnh núi Rồng.
Chợ tan. Mọi người rục rịch trở về nhà sau một đêm, một ngày chìm trong khói thắng cố, ngất ngây trong men rượu và mệt lử vì những điệu nhảy. Đàn ông say rượu nằm gục trên lưng ngựa và đàn bà vẫn kiên trì bước những bước chân lầm lũi phía sau.
Thế mà Sinh vẫn ngồi uống rượu một mình trong quán thắng cố tận góc chợ. Mọi lần có Mẩy ngồi bên cạnh nói chuyện, uống chưa cạn bát rượu Sinh đã say chống chếnh. Ngồi trên ghế, lưng tựa vách gỗ mà Sinh thấy như mình đang bay cùng những đám mây vắt trên đỉnh núi kia. Lần này xuống chợ không gặp được Mẩy, Sinh uống bao nhiêu rượu vẫn không say. Thỉnh thoảng Sinh lại ngước mắt về phía con đường dẫn lên bản Thượng, vẫn không thấy Mẩy đâu, trong ánh mắt ầng ậc nỗi nhớ chỉ có con đường vắng ngắt, sâu hút với hàng pơ mu cổ thụ cao vút đứng im lìm và cây đào già lẻ loi nơi ngã rẽ.
Từ sáng tới giờ, người phụ nữ mà Sinh chờ đợi mong mỏi cả tuần không xuất hiện. Tờ mờ sáng, Sinh đến chợ, khi đó mặt trời mới lấp ló sau sườn núi. Sinh uống rượu cho đến lúc mặt trời đỏ như quả cầu lửa treo lơ lửng trên ngọn pơ mu. Uống rượu hết cả số tiền mang theo, thế mà vẫn không thấy bóng dáng Mẩy. Không gặp được Mẩy, không có người uống rượu cùng, không có người trò chuyện… Sinh thấy trống trải, heo hắt như bậc thang ruộng trơ gốc rạ vào những ngày đông giá rét. Phiên chợ cuối năm đông đúc nhộn nhịp, Sinh thấy trống vắng, hiu quạnh làm sao! Lần trước lúc chia tay, Mẩy còn hẹn Sinh hôm nay xuống chợ, gặp nhau, vậy mà… Sinh ngửa cổ uống cạn bát rượu, uể oải ra khỏi quán. Bước chân chơi vơi của Sinh dừng lại bên cây đào già ven đường. Sinh lặng lẽ nhìn những cánh lá tả tơi, héo rũ dưới gốc, lôi trong túi áo ngực ra chiếc kèn môi. “Anh ơi, nhà em không có rào/Anh ơi, nhà em cửa không cao/Anh yêu em anh cứ vào, cứ vào…” Điệu kèn môi dập dìu như lòng Sinh đang bồn chồn, thấp thỏm mong đợi người đàn bà của mình.
Tiếng gà gáy trưa vọng lại từ phía bờ rào đá làm Mẩy tỉnh giấc. Khi đó mặt trời đã hắt bóng mái gỗ xiên ngang ngưỡng cửa chính. Biết muộn phiên chợ, Mẩy hốt hoảng vấn lại mái tóc bạc, thắt áo váy, giắt vội đôi giày nhung vào cạp váy, với tay lấy ô rồi tất tưởi bước ra ngõ. Trên đường đi, Mẩy gặp người cùng bản đi chợ về, những chiếc ô đủ màu sắc xòe ra dưới nắng trông như nấm mọc bên bờ ruộng sau ngày trời mưa. Và, những chú ngựa vẫn thảnh thơi nện móng xuống nền đường gột guột sỏi đá làm đường dẫn lên bản Thượng nhộn nhịp hẳn lên. Lên đỉnh dốc Găng, gặp con bé Mun đang tung tăng về nhà, trên lưng lắc lư chiếc gùi to như muốn ấn người nó xuống mặt đường, tay nó cầm chiếc ô màu hoa cải sáng rực. Gặp Mẩy nó nhanh nhảu:
– Già xuống chợ đấy à! – Chiếc ô trên tay nó xoay tròn, nó nói qua hơi thở hổn hển.
– Ừ, mày xuống chợ mua được gì không?
– Được hai cuộn chỉ màu thôi già à. Sao già xuống chợ muộn thế! Chợ tan rồi, già ơi.
– Tao xuống một lúc rồi về ngay Mun à. – Mẩy vừa nói vừa ngoái cổ lại khi chỉ còn trông thấy chiếc ô màu hoa cải thấp thoáng sau triền dốc Găng.
Vừa đi, Mẩy vừa lôi đôi giày ra ngắm và nghĩ đến lúc Sinh xỏ đôi bàn chân chai sần nứt nẻ vào ướm thử. Không biết đã trải qua bao nhiêu con dốc, những bước chân gấp gáp, phấp phỏng trên mặt đường đá gồ ghề, trong lòng Mẩy chất chứa bao suy nghĩ rối bời. Quả thật, trong cuộc đời đi hơn sáu chục mùa rẫy của mình, Mẩy đã gỡ không biết bao nhiêu cuộn chỉ màu rối tung, rối mù khi dệt thổ cẩm; đã khuyên nhủ điều hay lẽ thật cho sáu đứa con, mười hai đứa cháu nội ngoại và cho biết bao nhiêu câu chuyện éo le, khúc mắc trong bản, nhưng chưa bao giờ Mẩy lại vướng phải mối rối rắm như lúc này. Lần trong cạp váy lấy ra đôi giày nhung màu đỏ, đôi giày mà Mẩy tự mình xuống chợ tìm mua vải, chỉ màu, thức thâu đêm để khâu nó. Hồi xưa, ngày còn con gái, chỉ cần một đêm là khâu xong một đôi giày. Thế mà, thời gian, năm tháng quyện vào nhau như sợi dây nghiệt ngã kéo đám mây mù giăng ngay trước mắt và cái giá lạnh của mùa đông đang đậu vào đôi tay run run khiến Mẩy làm việc gì cũng khó. Cả tuần nay, đêm nào Mẩy cũng chong đèn rờ rẫm khâu giày. Chỉ khổ một nỗi, mỗi khi đứt chỉ là Mẩy lại phải đợi đến sáng mai để nhờ con bé Mun sang xâu kim giúp. Đêm qua, gần như Mẩy đã thức trắng đêm để hoàn thành mũi kim cuối cùng của đôi giày. Đây có lẽ đó là đôi giày đẹp nhất, ưng ý nhất mà Mẩy làm được. Những mũi kim đều tăm tắp, mũi giày thon nhọn và mềm mại, trên nền nhung thêu hình những bông hoa cải nhỏ màu vàng óng ánh mỗi khi ánh đèn chiếu vào. Đôi chân của Sinh xỏ vào sẽ vừa vặn lắm đây, Sinh sẽ thích cho mà xem! – Mẩy nghĩ bụng và thiếp đi cho đến khi có tiếng gà gáy cất lên phía bờ rào đá.
***
Nhìn đôi giày, Mẩy lại nhớ đến những ngày mình đã trải qua. Đời Mẩy gập ghềnh như con đường gồ ghề dẫn về bản Thượng vậy. Vừa biết xấu hổ thì phải về nhà chồng. Chỉ còn chưa đầy một tháng nữa là được làm mẹ thì Mẩy đã trở thành gái góa. Trước khi về làm ma nhà chồng, Mẩy cũng đã ngồi khâu giày vải. Đó là đôi giầy vải đầu tiên của Mẩy. Ngày còn bé, Mẩy học khâu giầy từ mẹ. Đôi giầy đầu tiên Mẩy làm không được đẹp cho lắm vì đôi tay còn lóng ngóng, mũi kim chưa đều, những nống vải cũng nhăn nhúm và sợi kim tuyến vẫn còn thêu vụng về. Nhưng Mẩy hi vọng người đó sẽ thích. Đôi giày đỏ chưa đến được với người con trai Mẩy thích thì Mẩy phải đi lấy chồng. Lấy chồng mà cái bụng không ưng. Phải lấy chồng, như bát nước hắt vào đời Mẩy. Lấy chồng, như cơn gió dập tắt ngọn lửa khao khát yêu đương âm ỉ trong tâm hồn Mẩy. Mà chuyện đó cách đây mấy chục mùa mùa rẫy rồi. Mỗi khi nhớ lại Mẩy vẫn thấy lòng mình xao xuyến. Lần này đã là lần thứ tám mươi Mẩy chứng kiến mùa đông đi qua đỉnh núi. Mỗi khi mùa đông qua đi còn sót lại chút giá lạnh vương vãi trên mái tóc xơ xác và lấm tấm sương đêm. Từ cô Mẩy xinh đẹp ngày nào, sau những năm tháng ngồi đếm chuỗi ngày đông giá rét bên bếp lửa hồng, nhìn thời gian lướt qua những mùa rẫy giờ đã trở thành bà Mẩy già nua, ngày ngày ngồi bên bếp lửa lập lòe, nhum nhúm khói trong căn nhà gỗ chênh vênh đợi đến ngày phiên chợ.
Mẩy là đứa con gái đẹp nhất vùng. Dân bản vẫn kháo nhau như vậy. Mà nhà Mẩy thì cũng nghèo lắm, nghèo nhất bản Thượng. Bố mất sớm, nhà chỉ còn hai mẹ con. Sống khổ sở, lăn lóc như viên cuội nơi đáy suối. Ngày mùa, Mẩy theo mẹ đi gặt thuê, cần mẫn mót những hạt lúa hiếm hoi rơi rớt trên mặt ruộng với lũ chim, lũ sóc. Hết mùa lúa Mẩy lên rừng nhặt củi đem xuống chợ bán lấy tiền. Hai mẹ con bìu díu nuôi nhau qua ngày, làm quần quật cả ngày cũng chẳng đủ ăn lại lo trả món nợ cho nhà Coóng từ hồi vay chữa bệnh cho bố. Thành thử cái nghèo, cái đói như cây gai ngày càng ăn sâu bám rễ vào cuộc sống của mẹ con nhà Mẩy. Quanh năm, suốt tháng đầu tắt mặt tối, mùa này sang mùa khác lam lũ, cái nhìn bám theo đuôi ngựa, quẩn quanh với những chân ruộng bậc thang men theo triền núi. Tính nết Mẩy hiền dịu, nhu mì như củ khoai, củ sắn dập vùi trên đồng đất sỏi. Thỉnh thoảng cô lại ngước mắt nhìn lên đỉnh núi Rồng tứ bề mây phủ. Nghèo, khổ, cơ cực là vậy! Nhưng nhan sắc của cô thì không ai sánh bằng. Chẳng thế mà lũ con trai từng đánh nhau đến sứt đầu mẻ trán chỉ vì ghen với ánh mắt liếc ngang khi Mẩy không chia đều cho chúng.
Năm Mẩy mười bảy tuổi, xã mở điểm trường dạy dân bản học cái chữ. Những ngày đầu, thầy giáo đến từng nhà vận động dân bản cho trẻ con đến trường. Nhìn bọn trẻ tung tẩy cắp sách tới lớp sau những buổi lên nương lên rẫy, đi học về lại lấy than đen cặm cụi viết chữ lên vách gỗ, miệng đọc bi bô… Lại nghe người ta bảo, cái chữ tuy không đong được như hạt thóc, hạt ngô, không đếm được như con trâu, con bò nhưng cái chữ làm cho quanh năm thóc đầy bồ, bốn mùa trâu đứng chật sân. Nên mỗi lần đi ngang qua lớp học, Mẩy lại chống đứng ô tần ngần nhìn từ đằng xa.
– Không có cái chữ chẳng biết được đúng, sai! Thầy giáo dạy tôi cái chữ! – Một lần Mẩy nói với thầy giáo như vậy.
Từ hôm đó, cô cùng lũ trẻ trong bản chăm chỉ học cái chữ. Tối về, bóng cô chong bên bếp lửa, lấy than đen viết lên vách gỗ, cô tập viết tên mình, viết con trâu, con bò, đọc tên hạt thóc, hạt ngô. “Có cái chữ, biết tính toán, bán củi không còn bị bắt nạt nữa!” – Cô nghĩ bụng, mắt nhìn vút lên đỉnh núi mù mù sương.
Khất lần mãi rồi cũng đến ngày trả nợ cho nhà Coóng, của cải trong nhà chẳng có gì đáng giá. Gặp năm hạn hán mất mùa, lúa ngô tàn lụi, chỉ có món nợ nhà Coóng thì cứ thế sinh sôi, từ năm đấu thóc đến nay nhân lên nhiều không đếm hết.
***
Chiều…
Nắng nhạt thếch xiên qua những khe gỗ cong vênh, căn nhà trống hoác với những tia nắng nhờn nhợt lẫn cùng làn khói bếp u ám lượn lờ khắp nhà. “Lão Coóng cho người sang hỏi mày cho thằng Hin, con trai lão” – mẹ thở dài, với tay lấy thanh củi cời lại bếp lửa, tàn tro bắn tung lên cùng làn khói thâm u. Chẳng biết vì khói bụi hay vì tủi hận phận mình mà mẹ thấy cay cay nơi sống mũi. Trên khóe mắt nhăn nheo như vỏ thông đọng lại những giọt nước mắt. Những giọt nước mắt ứa ra, ri rỉ như nhựa thông sau vết chém và mằn mặn nơi đầu lưỡi vốn đã khô nhạt của người già. Mẩy lặng thinh, ngước đôi mắt ầng ậc nước nhìn dáng mẹ khắc khổ như thanh củi khô, yếu ớt như hòn than sắp nguội mà không khỏi chạnh lòng. Cô khẽ giấu tiếng thở dài, chợt lòng thấy buồn hiu hắt.
Đám cưới Mẩy với thằng Hin diễn ra vào mùa khô, đúng như tục lệ xưa nay dân bản vẫn làm. Hôm đó, trời đang hanh hao bỗng giông gió nổi lên ào ào… Điềm dữ! – Dân bản kháo nhau, nhìn nhau bằng ánh mắt hoảng hốt, sợ sệt. Quả thật, sau buổi mưa giông ngược đời ấy, cuộc đời Mẩy đã thay đổi hẳn.
Hai cha con thằng Hin ngày càng nghiện thuốc phiện nặng, bao nhiêu thóc, trâu, bao nhiêu con nai, con hoẵng cùng cây gỗ trên rừng lần lượt biến thành khói thuốc phiện chui qua bàn đèn cùng cha con nó. Sự chặt phá, săn bắt của hai cha con lão Coóng làm rừng gần ngày một hết cây gỗ to, thú rừng ngày càng khan hiếm, cây lim, cây táu không kịp lớn, muông thú rủ nhau bỏ đến rừng xa sinh sống. Khu rừng ngày nào xanh tươi, rậm rạp là vậy, giờ trở nên xơ xác, trọc lóc những gốc cây trơ trụi. Rừng biến thành đồi trọc cằn cỗi, lổn nhổn đá mồ côi lẫn cùng những bụi cây cỏ lúp xúp. Càng ngày cha con nhà Coóng càng cần có nhiều tiền để mua thuốc phiện. Bí tiền, làm liều! Bỏ ngoài tai cái lý bảo vệ rừng thiêng của tổ tiên; cha con nhà Cóong ngấm ngầm vác dao, vác rìu, mang súng, mang bẫy mò đến rừng xa, lén lút săn bắn con nai con hoẵng, âm thầm chặt hạ những cây lim, cây táu đem xuống phố bán lấy tiền, đổi lấy thuốc phiện. Chúa ngàn tức giận, phạt hai cha con lão vì dám làm kinh động rừng thiêng. Cả bản cũng bị vạ lây khi lũ từ thượng nguồn rùng rùng đổ về; những căn nhà lóp ngóp trong dòng nước lũ đỏ ngầu màu máu; máu của những con nai, con hoẵng mà hai cha con thằng Hin đã giết trong những cuộc săn. Người chết, nhà trôi, bể dâu đau khổ, thằng Hin bị cây lim đổ đè ngang người chết ngắc ngứ giữa dòng nước dữ. Từ buổi đó, Mẩy sống lầm lũi như cái bóng vô hồn cùng lão bố chồng nghiện ngập tối ngày vật vờ như bóng ma.
Từ ngày về làm ma nhà Coóng, Mẩy không còn nhớ đến cái chữ. Tưởng như cái chữ đã bỏ đi cùng con nai, con hoẵng. Cũng lạ, đang ngồi bên bếp lửa, tiện tay lấy que củi đang cháy dở gạch vài nét lên vách bếp cô lại nhớ đến cái chữ. Nghĩ đến cái chữ, Mẩy lại nhớ đến cuốn sách thầy giáo mua cho hồi còn đi học. Chợt thấy lòng bồi hồi, từ đâu đó trong nỗi nhớ vọng lại tiếng học bài bi bô của lũ trẻ nghe da diết như tiếng lòng đang réo rắt. Những nét chữ trên vách gỗ nhảy múa như thách thức. Trong một lần say rượu thằng Hin đã vứt cuốn sách lên trên gác. Mà con gái không được leo lên gác! Cái lý của tổ tiên xưa nay là thế. Không biết cuốn sách bây giờ ra sao! Nghĩ thế, cô liếc mắt nhìn ngang qua mấy bậc cầu thang lên gác. Chỉ với mấy bậc cầu thang ấy thôi. Nhưng bao phận đàn bà con gái vẫn không dám đặt chân lên nấc thang đầu tiên đã mòn vẹt như dóng trâu kia. Mà bây giờ cuốn sách có còn trên gác không nhỉ? Mẩy nghĩ bụng rồi rón rén bước lên thang gác, tiếng bước chân thậm thịch, tiếng cột gỗ cà vào nhau cót két, nghe rờn rợn.
– Đàn bà con gái hớ hênh! Mày phạm lời nguyền, mày sẽ bị trừng phạt! – Lão Coóng hét lên, lúc đầu giọng lão nghe hoảng hốt sợ hãi, về sau nghe lành lạnh, rin rít qua kẽ răng xin xỉn vì khói thuốc phiện.
Mẩy giật bắn người, loạng choạng ngã xuống chân cầu thang, trên tay cầm cuốn sách vừa tìm thấy trên gác. Cô hoảng hốt nhìn lên mấy bậc cầu thang, nhìn cuốn sách rồi ánh mắt sợ sệt dừng lại chỗ cây cột cái, nơi có ống nứa, bên trên ống nứa cắm mấy cây hương đã cháy hết còn trơ lại chân hương, bên trên là túm lông cổ con gà trống dán trên mảnh bùa đã yểm. Lâu ngày, tiết gà đã thâm xì meo mốc.
Vào mỗi dịp lễ, tết hay có hội, dân bản thường quây quần bên bếp lửa, truyền tai nhau câu chuyện, nhắc nhau nhớ lại lời nguyền.
***
Chuyện kể rằng.
Ở một nhà kia, mấy đời sum vầy trong ngôi nhà gỗ, lúa đầy bồ, trâu đầy chuồng, cuộc sống sung túc đề huề. Người già, trẻ con, đàn ông thanh niên, đàn bà con gái; sống có trên có dưới, có trước có sau như trong ngôi nhà họ đang ở vẫn có cột cái, cột con; có gian chính, gian phụ. Khi người con trai đã biết vỡ đất làm nương gieo hạt, gia đình nhờ người mai mối cưới người con gái đẹp nhất bản về làm vợ. Trong một lần người con dâu trèo lên thang gác, bố chồng ngồi dưới trông lên vô tình nhìn thấy chỗ kín của cô con dâu. Từ đó, hai người phải lòng nhau, lén lút ăn nằm với nhau. Chuyện động trời! Ma nhà tức giận bắt phạt người bố chồng phải chết. Trước khi chết ông kể lại câu chuyện cho mọi người nghe. Từ đó dân bản cấm kỵ đàn bà, con gái leo lên thang gác. Vì sợ mọi người trong nhà bị ma nhà bắt phạt. Phải chết…
Mấy ngày nay trở trời, rừng động, đêm đến lũ chim lợn kéo về đậu kín trên những thân cây trơ trụi ngoài bìa rừng, mắt sáng như ma trơi nhìn vào bản. Thỉnh thoảng chúng lại kêu “eng éc” rồi chao lượn như những thần chết lụp xụp trong tấm áo choàng đen với cái mỏ quặp như lưỡi tầm sét lao đi trong màn đêm đen đặc. Từ hôm leo lên thang gác, câu chuyện về lời nguyền lúc nào cũng ám ảnh trong tâm trí Mẩy. Hằng đêm lởn vởn trong giấc ngủ chập chờn của Mẩy là những giấc mộng ma mị; là hình ảnh thằng Hin thân hình nát bấy tả tơi lảng vảng bên con suối vắng. Một đêm, trời tối mịt mùng, những bóng ma vật vờ trong xó nhà, ẩn dật dưới chân cầu thang, rúc rích ngoi ra từ khắp các ngóc nghách, những hốc mắt đỏ lòm, sâu hoắm, đôi bàn tay rệu rã xương xẩu, Mẩy rùng mình tỉnh giấc bởi tiếng kêu rờn rợn của lũ chim lợn vọng lại từ bìa rừng và lão Coóng gày rộc như bộ xương khô đang đè lên người cô, chiếc cầu thang lên gác chao đảo, nghiêng ngả sau hơi thở hồng hộc của lão. Không…! – Seo Mẩy vùng chạy ra bờ suối vắng, mảnh trăng nhờ nhợ chống chếnh như muốn vỡ làm đôi.
Ngày con Say lẫm chẫm biết đi thì Mẩy trở thành vợ của Dun. Mẩy sinh cho Dun năm đứa con, trong lúc hai vợ chồng đang háo hức kiếm đứa con thứ sáu thì Dun lăn đùng ra chết. Chôn cất chồng xong, Mẩy nhận được lời khuyên răn của người già trong bản. Đàn ông bản này gặp mày đều chết, mày phải ở vậy nuôi con thôi, Mẩy à… mày mà lấy chồng nữa thì đàn bà con gái trong bản này ế chồng hết thôi. Mẩy ôm con ngậm ngùi đốt giấy bên mộ chồng. Lời khuyên của người già được Mẩy cắn răng coi như lời nguyền vận vào đời mình. Tối ngày Mẩy cắm mặt xuống đất, ngày mùa tra hạt trồng ngô, hết mùa cặm cụi khâu giầy vải mang xuống chợ bán lấy tiền nuôi đàn con nheo nhóc. Mẩy chẳng kịp biết tình yêu là gì nữa. Mẩy đã làm ma nhà chồng rồi. Còn tình yêu? Thứ tình cảm đó Mẩy giành hết cho đàn con nheo nhóc! Mỗi lần thấy chúng kêu đói bụng, hay đứa ốm, đứa đau, lòng Mẩy thắt lại. Chiều chiều ngồi bên bục cửa ngắm mặt trời khuất dần sau đỉnh núi Rồng, Mẩy nghĩ bụng sẽ sống vậy đến hết đời. Ai ngờ, ở độ tuổi con cháu đề huề, Mẩy lại rung động trước người đàn ông trẻ tuổi, ngờ nghệch như Sinh. Được nhìn thấy Sinh, được nói chuyện với Sinh, Mẩy thấy lòng mình trẻ lại. Tâm trạng phơi phới như những đêm tình mùa xuân làm Mẩy có cảm giác như những vết nhăn nheo trên mặt giãn ra, ngay cả những bước chân cũng không còn chậm chạp mà trở nên nhẹ tênh và tiếng kèn môi lúc nào cũng ngân lên trong lòng.
Hằng ngày, khi chiều dần buông, làn khói bếp lảng bảng bên chái hiên nhà là Mẩy lại ra ngồi lên phiến đá ngoài bờ suối, mơ màng nhớ về những gì đã qua của đêm mùa xuân năm ấy. Từ bao đời nay, vào những đêm xuân, núi rừng ấp vai nhau ngủ vùi trong tấm chăn dệt bằng làn sương mong manh. Chợ tan. Trai gái nhìn nhau đắm đuối, ánh mắt dùng dằng luyến tiếc chẳng muốn rời xa, thầm trao nhau lời hẹn trong phiên chợ lần sau. Trên những đống lửa, những thanh củi oằn mình tí tách rồi lịm dần, nhường chỗ cho luồng hơi lạnh đang phả ra từ những vách đá.
Lần ấy Mẩy gặp Sinh trong hội đua ngựa. Nhìn những con ngựa căng cứng dây cương, bờm ngựa xõa xuống che lấy mắt làm Mẩy cũng thấy háo hức. Nhìn những người đàn ông rạp mình trên lưng ngựa, lưng ngựa phủ khăn đỏ Mẩy cũng thích. Trước đây Mẩy cũng từng ngồi trên mình ngựa trải khăn đỏ như thế. Nhưng không phải đua ngựa mà là đi chơi. Người ấy vẫn bế Mẩy đặt trên mình ngựa, chậm rãi đi theo dắt ngựa đưa Mẩy đi chơi khắp vùng. Trong không khí lạnh se sắt nhưng sao Mẩy thấy lòng mình ấm áp như dưới nắng hè. Mà cũng như duyên số vậy, nếu như hôm ấy ngựa của Sinh thắng trong cuộc đua, có lẽ Mẩy chẳng gặp được Sinh. Nhìn Sinh ôm ngựa khóc tu tu mà Mẩy thấy mủi lòng. Quen thân rồi Mẩy mới biết Sinh quý ngựa lắm. Sinh lười làm hơn chăm sóc chú ngựa quý của mình. Mà đó là con ngựa ô quý thật, bốn vó chắc nịch, cao ráo và những bước chân như sải ra, vươn cao cổ lên đầy kiêu hãnh. Chính vì thế khi thua cuộc, Sinh mới khóc nức khóc nở. Cũng chính vì yêu ngựa hơn yêu vợ mà có lần về nhà Sinh đã bị vợ đá văng ra khỏi cửa. Kể ra thì cũng tội cho Sinh lắm. Chẳng hiểu sao cứ mỗi lần gặp Sinh, Mẩy lại có cảm giác như người đó đang ở ngay bên cạnh mình. Mẩy có thể đứng hàng giờ nhìn Sinh chăm sóc con ngựa ô, nhìn Sinh vuốt ve vỗ về nó, nghe Sinh thủ thỉ trò chuyện với nó. Cứ như không còn ai để nói chuyện tâm sự nữa, Sinh quay sang thủ thỉ với con ngựa của mình.
Cái Say đã có chồng, có con. Nó đã dựng vợ, gả chồng cho thằng Ling, con Jun. Giờ thì bà Mẩy đã có chắt rồi đấy. Thế mà, đêm qua bà lại thức thâu đêm khâu đôi giày nhung đỏ này cho Sinh. Mà cũng tại Sinh nữa, lớn lắm rồi, thế mà chẳng biết tự lo cho bản thân, cứ lang thang như con nai con sóc vậy. Sinh mà sớm như người ta thì đã có con lớn! Lẽ ra bây giờ phải lo dựng vợ, gả chồng cho con trai, con gái khi chúng nó đã biết tìm đến miếng đất màu mỡ làm nương gieo hạt, biết dệt thổ cẩm đem xuống chợ bán lấy tiền. Đằng này vẫn còn trơ trụi một thân một mình như cây đào già bơ vơ. Bà Mẩy khẽ lắc đầu chép miệng nhìn xuống gốc cây đào già, nơi có đống lá đào do ai đó vặt trụi rồi vò nhàu nát vứt dưới chân.
***
Cuối tháng Chạp, những hạt thóc khô giòn, căng mẩy nằm gọn trong bồ, thịt trâu treo trên gác bếp đã khô, thơm dậy mùi khói và những hạt ngô gieo ngoài nương đang cựa mình mở mắt nảy mầm cũng là lúc núi rừng bước vào mùa lễ hội. Bà Mẩy rục rịch sửa soạn áo váy, vấn lại mái tóc lấm tấm sương, háo hức xuống chợ. Tiếng hát, tiếng nhạc lẫn trong tiếng gió, rạo rực cùng làn sương miên man như bức màn sữa giăng kín đất trời. Khắp nơi râm ran tiếng khèn. Tiếng khèn làm bản xa trở nên gần, đường dài hóa ngắn và lòng người chộn rộn, xốn xang. Ánh lửa ấm áp như xua đi cái lạnh lẽo của mùa đông vẫn dắt đâu đó trên những vách đá. Ánh lửa hồng rực như đậu trên đôi má bầu bĩnh hây hây đỏ của lũ trẻ và dính lại dưới gót chân chai sần nứt nẻ của người già. Ánh lửa nhuốm màu sương, khói, áo, váy; cháy bập bùng cùng câu hát gọi bạn của con trai, con gái dành cho nhau. Đêm chợ cuối năm lung linh, huyền ảo và kỳ bí lạ lùng. Sau những ngày đông lạnh lẽo, trời đất bắt đầu vào xuân, màn sương tan ra nhường chỗ cho ánh mặt trời lấp ló từ đỉnh núi Rồng là bà Mẩy lại thấy câu hát khi xưa réo rắt trong lòng. Câu hát vọng lại từ đâu đó trên đỉnh núi phía đằng xa, câu hát theo những ngọn gió xuân dìu dặt cùng tà váy xòe che gót chân thiếu nữ xăm xăm bước qua những triền dốc gập ghềnh. “Anh ơi, nhà em không có rào/ Anh ơi, nhà em cửa không cao/ Anh yêu em anh cứ vào, cứ vào…”. Trong không khí tưng bừng của lễ hội, ánh mắt đùng đục của bà ngập trong ánh lửa, xuyên qua sương khói tìm cái nhìn lúng liếng sau vành khăn thổ cẩm để được chìm đắm trong ký ức sâu thẳm. Chợt thấy lòng mình rạo rực, bồn chồn và những ngọn gió vẫn cồn cào mài vào vách đá như muốn bóc đi lớp bụi thời gian phủ trên những lớp rêu phong cũ kỹ. Trong tâm trạng háo hức, bà Mẩy chậm rãi nhấc những bước chân già nua của mình len lỏi bên những cặp chân trần chắc nịch như bắp hoa chuối rừng của đám con trai, con gái say sưa trao nhau tâm tình qua ánh mắt, nụ cười và cả những giọt nước mắt ngậm ngùi lẫn trong hơi thở ấm áp phả vào màn sương lành lạnh. Giữa tiếng khèn rỉ rả, giữa những áo váy xập xòe cùng ánh lửa hồng rực bỗng thoang thoảng đâu đó điệu khèn quen thuộc ngày nào. Tiếng khèn làm Mẩy thấy tâm trạng bồn chồn, trái tim thổn thức, run rẩy. Gió lạnh tê tái vẫn lùa qua từng thớ vải.
Mẩy gặp Sinh. Thấy Sinh mặt đỏ bừng bừng, hơi thở phả ra toàn mùi rượu. Mẩy cũng muốn uống rượu. Rượu, uống đến đâu biết đến đấy. Ngày còn con gái Mẩy cũng uống rượu vào những ngày xuân. Uống rượu, trong người cảm thấy nóng rực, bắp chân tung tẩy khắp bản trên bản dưới mà không thấy mệt. Uống rượu. Say rượu thì hát. Vừa hát vừa múa… Một thời Mẩy xinh đẹp như đóa ban trên khắp những cánh rừng bản Thượng. Nhưng đời Mẩy thì mù mịt như đỉnh núi vẫn bị màn sương bao phủ ngày đông giá rét. Tình yêu đầu tiên của Mẩy tắt lịm kể từ khi tiếng khèn xuống chợ vụt tắt trong buổi mưa gió bão bùng.
– Sinh à, Mẩy già rồi, không còn sức mà dìu Sinh lúc say rượu nữa. Sinh dựa vào gốc đào này mà nghỉ, Mẩy ngồi đợi khi nào Sinh tỉnh lại, hai chúng mình cùng về. Ngủ đi một lát sẽ tỉnh ngay thôi! – Mẩy nói giọng ngậm ngùi, đỡ Sinh ngồi tựa lưng vào gốc cây đào, rồi lấy ô che nắng cho Sinh nằm ngủ.
Sáng nay Sinh đã đứng đợi Mẩy dưới gốc đào già ven đường. Sinh đứng đợi từ lúc người ta đeo gùi, dắt ngựa thồ hàng xuống chợ bán cho đến khi hàng bán hết, uống rượu đến say ngất ngư rồi lại bám theo đuôi ngựa về bản, nhưng Mẩy vẫn không đến. Sinh luồn tay vào túi lấy ra chiếc kèn môi. Ngày mới quen nhau, Mẩy tặng Sinh chiếc kèn môi. Chiếc kèn cũ nhưng tiếng hãy còn trong lắm. Mẩy bảo không muốn Sinh buồn mỗi khi không có Mẩy ở bên. Kể từ hôm đó, không còn nhớ hai người đã trải qua bao nhiêu phiên chợ nhưng lúc nào Sinh cũng mang chiếc kèn bên mình. Tối về Sinh đặt chiếc kèn ngay đầu giường và coi như người đàn bà của mình đang nằm bên cạnh, có lúc Sinh lại mang chiếc kèn ra ngắm và thổi một mình vào những đêm trăng. Như có phép lạ, điệu kèn cất lên làm Sinh có cảm giác như Mẩy đang ngồi bên cạnh, cái ô trên tay Mẩy xòe rộng ra và xoay tít trên vai, Mẩy rực rỡ, e ấp sau vành ô, rạng rỡ như thiếu nữ lần đầu xuống chợ.
***
Đã là ngày tết, túm lông cổ con gà cúng ông bà tổ tiên được gắn lên thân cây cột cái cùng mảnh giấy bùa màu đỏ. Bà Mẩy thành kính nhìn lên cây cột cái, lập cập đốt mấy nén hương cắm vào ống tre, gió xuân nhè nhẹ làm khói hương nghi ngút lan khắp nhà. Trên bếp lò hồng rực, nồi thắng cố âm ỉ sôi, khói bốc nghi ngút. Vào những ngày lễ tết hay nhà có khách quý, gian bếp lò lúc nào cũng đỏ lửa, bà không biết rằng từ ngoài chợ người đàn ông từng đợi bà dưới cây đào già ven đường đang chậm rãi trở về. Có lẽ năm nay bếp lửa trong nhà bà cháy cho cả hai điều đó. Bà ngước mắt nhìn lên đỉnh núi Rồng, những tia nắng ấm áp như xua đi màn sương mong manh. Và mùa đông năm nay không có mưa giông. Đó cũng là điềm lành đến với cuộc đời bà và Sinh.
Trịnh Hồng Hải