Đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Mông

Dân tộc Mông ở Tây Bắc có nền văn hóa đặc sắc, cuộc sống trên rẻo cao đã hun đúc lòng dũng cảm để chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, xây dựng bản làng quê hương. Theo thời gian, bằng tình yêu dân tộc, những nét đẹp phong tục sinh hoạt văn hóa như: thổi khèn, múa khèn, thổi sáo, kèn lá, đàn môi; các trò chơi: đánh cù, ném pao; các bài ca trong các ngày lễ hội, tết cổ truyền; nghi lễ đám cưới, đám tang, thờ cúng tổ tiên; những câu chuyện cổ tích… đều được các thế hệ con, cháu dân tộc Mông giữ gìn, phát huy. Đây là một trong những hành động thiết thực hưởng ứng Nghị quyết Số 04-NQ/TU ngày 17/02/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc gắn với phát triển du lịch giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030.

Tìm hiểu về văn hoá dân tộc Mông, chúng tôi thấy lớp lớp ý nghĩa trong từng phong tục, nếp sống hàng ngày. Đặc sắc, phong phú đã làm nên bức tranh văn hóa Mông đa màu sắc. Người Mông chia thành ba nhóm: Mông Trắng, Mông Đen, Mông Hoa. Ngôn ngữ cơ bản đều giống nhau, chỉ khác về âm thanh nói nặng, nhẹ. Phong tục tập quán khác nhau một số tục lệ riêng biệt của mỗi nhóm và các dòng họ. Trang phục của ba nhóm Mông, nam giới mặc quần, chỉ khác kiểu, mầu, đầu đội khăn. Theo đó, nam mặc quần vải đen ống rộng, áo vải đen, đầu đội khăn. Em Hạng Thị Qua – bản Sin Suối Hồ, xã Sin Suối Hồ, huyện Phong Thổ chia sẻ: “Phụ nữ Mông từ tuổi thơ đến trưởng thành, cha mẹ, các anh chị đều dạy se lanh, dệt vải, thêu hoa váy, áo, thắt lưng, khăn. Nữ dân tộc Mông trắng mặc váy vải lanh trắng, Mông hoa mặc váy thêu chỉ đủ sắc màu, Mông đen mặc váy đen thêu hoa văn chân váy. Trang sức làm bằng bạc, đồng gồm: khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, bộ xà tích và nhẫn”.

Kéo co –  trò chơi truyền thống của dân tộc Mông.

Người Mông biết sử dụng nhiều loại nhạc cụ như: khèn, sáo, đàn môi, kéo nhị, khèn lá. Nhạc cụ dân tộc Mông vừa mượt mà như nước suối đầu nguồn, vừa hùng vĩ như thác ghềnh, như núi non. Âm hưởng trữ tình ấy làm đắm say hồn người, là niềm tự hào của bà con dân tộc Mông. Cây khèn không chỉ là nhạc cụ, đã trở thành một biểu tượng gắn liền với dân tộc Mông. Tiếng khèn có âm thanh chất chứa nỗi lòng, là tiếng của núi rừng, bước chân nhẹ nhàng của loài thú, tiếng vỗ cánh mãnh liệt của loài chim, réo rắt suối nguồn ào ạt thác đổ khi mưa về. Khèn thổi khi đi nương, đi chợ, lấy củi, chồng thổi khèn đi trước, vợ địu lu cở theo sau. Khèn thổi lúc đi chơi cùng bạn bè, khi nhàn rỗi. Đám ma, lễ hội cũng không thể thiếu khèn. Ngoài khèn, người Mông còn chế tạo trống bằng gỗ bọc da. Sáo lưới và sáo hơi chế tạo từ cây trúc, lưỡi gà bằng đồng gang. Đàn môi sử dụng đồng gang có lưỡi gà, tạo âm thanh hoà quyện cùng tiếng hát giao duyên để nam, nữ gọi bạn. Quả pao khâu bằng vải để thanh niên ném chơi trong ngày lễ hội, tết cổ truyền. Cù quay thì làm bằng gỗ cứng.

Dân tộc Mông có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết giữa các dòng họ, giữa cộng đồng của dân tộc. Tính cố kết dân tộc rất mạnh mẽ, các dòng họ cũng tự đặt ra quy ước bỏ các phong tục tập quán lạc hậu, phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc. Theo ông Lê Quang Minh – Trưởng phòng Quản lý Du lịch, Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch thì Lễ hội Gầu tào (chơi núi) của dân tộc Mông hiện nay được các cơ quan hữu quan chú trọng phục dựng vào dịp xuân mới để giữ gìn truyền thống văn hóa của dân tộc, động viên tinh thần của bà con. Ngoài phần lễ, phần hội có tổ chức các trò chơi: giã bánh dầy, múa khèn, thổi sáo, thổi đàn môi, thi trình diễn trang phục dân tộc, ném pao, kéo co, đẩy gậy, hát múa dân gian.

Các nghi lễ trong cưới xin, lễ tang của người Mông hiện nay vẫn còn giữ được những nét văn hoá đặc sắc, phản ánh các quan niệm về lịch sử xã hội người Mông, về cộng đồng dân tộc Mông.

Những truyền thống văn hóa của dân tộc Mông đã phản ánh lối sống vui vẻ, lành mạnh trong cuộc sống đời thường của họ. Dân ca người Mông là những bài hát do nhân dân tự sáng tác và lưu truyền trong dân gian bao đời nay về các nội dung: giao duyên, nghi lễ, than thân. Các bài ca có phần lời ca, âm nhạc và cả nghệ thuật diễn xướng. Ngôn ngữ của ba nhóm Mông có rất nhiều từ, câu văn vần, dân tộc Mông cũng có những bài ca phản ánh cuộc sống đời thường, phù hợp với tâm lý xã hội ngày nay. Nhiều câu hát sâu sắc: “Nước chảy được thì nước chảy/ Đất không chảy được thì đất lắng”, “Muối không thấy nước thì muối không tan/ Tôi không thấy mình thì lòng tôi không yên ổn”. Văn học dân gian người Mông gồm nhiều loại hình: truyện cổ tích, thần thoại, các bài dân ca, tục ngữ. Trong đó, thần thoại kể về các nhân vật anh hùng, giải thích nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên sinh ra. Truyện cổ tích kể về động vật, thân phận mồ côi, sự tích lịch sử chống giặc ngoại xâm và về sinh hoạt xã hội. Tục ngữ thì phản ánh về kinh nghiệm sản xuất của nhân dân, mối quan hệ xã hội của cộng đồng, phản ánh những việc tốt, phê phán việc xấu, để giữ vững phẩm chất đạo đức lối sống của con người. Một số câu tục ngữ rất thú vị như: “Không được nói, khèn nghe thấy khèn gẫy/ Trống nghe thấy trống thủng”, “Vợ chồng yêu nhau ngọt như mật ong/ Ghét nhau thì cay như quả ớt”

        Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống dân tộc Mông ở miền núi đã khấm khá hơn với các chương trình phát triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới. Văn hoá – xã hội được quan tâm chăm sóc, đời sống tinh thần ngày một đa dạng, phong phú. Tin rằng văn hoá dân tộc Mông ở Tây Bắc sẽ tiếp tục được bảo tồn nhờ ý thức của chính họ ở gia đình, dòng họ và cộng đồng bản. Văn hóa sẽ được tiếp nối, trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, được thấm dần vào mọi thành viên dân tộc Mông. Và chỉ như thế, mới “bảo tồn, trao truyền giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc tỉnh Lai Châu một cách khoa học và có hệ thống. Khơi dậy, phát huy tiềm năng giá trị, di sản văn hóa, hướng tới hình thành một số không gian văn hóa dân tộc tiêu biểu, xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong nhân dân” như mục tiêu mà Nghị quyết Số 04- của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đề ra.

PHÙNG YẾN


Bài viết liên quan


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.