“Hội xuân” – tình yêu thăng hoa trên nền văn hóa -Thuận Nguyên

M. Gorki cho rằng: Thơ ca chân chính bao giờ cũng là thơ ca của trái tim, cũng là tiếng hát của tâm hồn. Điều này, khẳng định sự quan trọng của cảm xúc trong thơ. Một bài thơ hay, có giá trị, ngoài cấu trúc thẩm mỹ cần phải có khả năng gây xúc động cho người đọc. Và bài thơ Hội xuân của tác giả Phạm Đào (đăng trên Tạp chí Văn nghệ Lai Châu số 2/2025) là một bài thơ như thế. Hội xuân đã mang đến cho người đọc những cung bậc cảm xúc mới mẻ về tình yêu lứa đôi, tình yêu nghệ thuật trên phông nền văn hóa.

Sao anh không về hội xuân

quả còn xanh

em khâu màu thương nhớ

chiếc khăn quàng cổ

em đan

nước mắt ngân hà

 

Đêm hội xuân

ánh lửa đượm hồng

bàn tay buốt giá

mắt dõi xa xăm

chỉ thấy sao trời lấp lánh

không anh

 

Có một nỗi niềm

buông trống rỗng mênh mang

hương ký ức

giật mình bật khóc

đêm mất ngủ

ngàn đêm mất ngủ

áo chàm ai nhuộm tím chân trời

 

                     Đêm hội xuân

nhịp xòe chiêng rộn rã

người ngược xuôi trăm ngả

khuyết tiếng khèn môi

trăng khóc

nhạt nhòa…

Thơ ca đơn giản, mộc mạc và có hồn nhất là khi có sự hòa điệu nhịp nhàng giữa hiện thực cuộc sống với cảm xúc. Đọc Hội xuân không khó để nhận ra nỗi niềm của cô gái trong tình yêu. Vẫn là mô tip tình yêu tan vỡ nhưng sự đặc biệt ở đây là giọng điệu nhớ thương da diết và những khắc khoải, chờ đợi trong tình yêu của em – cô gái dân tộc Thái dành cho anh – chàng trai dân tộc Mông trong đêm hội mùa xuân.

Nỗi nhớ ấy được tác giả thể hiện ngay ở nhan đề Hội xuân. Những ngày Giêng hai ở vùng cao, hội xuân là một địa chỉ văn hóa dành cho những người thích khám phá. Hội xuân là lễ hội diễn ra vào mùa xuân, nhan đề bài thơ chọn cách diễn đạt có vẻ đơn giản nhưng thực chất lại ẩn chứa những thông điệp có ý nghĩa sâu sa. Đến hội xuân để hẹn hò, tìm bạn kết duyên, để gặp lại người mình thương… để hiểu hơn về bản sắc văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc ở vùng cao. Từ trải nghiệm thực thế, câu chuyện tình yêu được cất lên bằng sự thăng hoa của cảm xúc. Chẳng thế, mà trong trái tim bao người vẫn thổn thức mỗi khi nhắc đến những Hội xuân như: lễ hội Nàng Han, lễ hội hoa ban, lễ hội Gầu Tào hay chợ tình… Người vùng cao là thế! Ngày xuân, nơi nào đông vui, nhộn nhịp thì ở đó có hội.

Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ của cô gái trong tình yêu. Nỗi nhớ vừa có sự bồi hồi, chờ đợi vừa có sự hụt hẫng, tiếc nối. Bởi:

Sao anh không về hội xuân

quả còn xanh

em khâu màu thương nhớ

chiếc khăn quàng cổ

em đan

nước mắt ngân hà

Câu thơ mở đầu mang hình thức câu hỏi. Có thể hiểu đó là lời tự sự của nhân vật trữ tình: hỏi chính mình; cũng có thể hiểu nhân vật trữ tình đang tự trách người mình yêu: Sao anh không về hội xuân. Dù hiểu theo cách nào người đọc cũng dễ dàng nhận ra tình yêu say đắm của trai rừng – gái bản. Tình yêu là đề tài hấp dẫn bất cứ lứa tuổi nào nhưng có lẽ sự mãnh liệt, dịu dàng và nữ tính của sơn nữ khi chờ đời người mình yêu trong hội xuân lại mang đến những cảm xúc đặc biệt hơn thế.

Thơ tác động đến người đọc vừa bằng sự nhận thức cuộc sống vừa bằng khả năng gợi cảm sâu sắc. Đối với bài thơ Hội xuân, sức gợi đầu tiên nằm ở hệ thống hình ảnh. Hình ảnh là yếu tố nghệ thuật quan trọng, đóng vai trò chủ đạo trong việc làm nên tính thẩm mỹ, chiều sâu cảm xúc và ý nghĩa của bài thơ. Sử dụng hình ảnh không chỉ là cách nhà thơ miêu tả hiện thực mà còn là cách họ thể hiện tư duy nghệ thuật, truyền tải đến người đọc những giá trị tinh thần và ý niệm sâu xa. Cho nên, bao quát bài thơ Hội xuân, không khó để người đọc nhận diện được những hình ảnh, thậm chí là những hình ảnh mang tính biểu tượng được tác giả dụng công thể hiện. Hình ảnh quả còn xanh, chiếc khăn quàng cổ là những minh chứng cho tình yêu lứa đôi ở hội xuân năm nào. Đó cũng là lời hẹn ước trở lại Hội xuân để nối những mùa yêu. Có thể thấy, tình yêu trong em đã vượt qua rào cản, định kiến dân tộc để yêu, để chờ đợi và để đến hội mỗi độ xuân về.

Sự chờ đợi, nhớ nhung là cung bậc không thể thiếu trong tình yêu:

Đêm hội xuân

ánh lửa đượm hồng

bàn tay buốt giá

mắt dõi xa xăm

chỉ thấy sao trời lấp lánh

không anh

 

Có một nỗi niềm

buông trống rỗng mênh mang

hương ký ức

giật mình bật khóc

đêm mất ngủ

ngàn đêm mất ngủ

áo chàm ai nhuộm tím chân trời

Không gian hội xuân đầy náo nhiệt hiện lên qua hình ảnh ánh lửa đượm hồng. Hình ảnh ấy gợi lên những đêm xòe Thái miên man bên ánh lửa bập bùng. Tay nắm tay kết vòng tròn đoàn kết… Nhưng chính yếu tố ngoại cảnh ấy lại khiến cho bàn tay buốt giá – cảm giác ở bàn tay nhưng nỗi đau ở trái tim. Biện pháp đối lập giữa ngoại cảnh và tâm cảnh góp phần khẳng định tình yêu mãnh liệt, thủy chung của cô gái dành cho tràng trai khác dân tộc. Hàng vạn ngôi sao trên bầu trời lấp lánh dường như thu gọn trong ánh mắt em tìm kiếm người mình yêu trong đêm hội. Hội đã tan, người đã về và anh không đến. Trong tình yêu, lí trí và trái tim là hai thái cực. Lí trí nhắc nhở buông nhưng trái tim lại muốn giữ bởi ký ức thì đẹp đẽ mà thực tại lại trống rỗng mênh mang nên em đã giật mình bật khóc. Tiếng khóc thảng thốt, bất lực là đỉnh điểm cảm xúc trong tình yêu của cô gái. Một tình yêu chân thành, thủy chung đâu dễ nói buông là sẽ quên?

Bài thơ khép lại bằng hình ảnh trăng khóc. Nỗi niềm trong lòng sơn nữ đã nhuốm sắc sầu thương sang cảnh vật. Một không gian hội xuân nhộn nhịp, ánh lửa bập bùng, điệu xòe gây thương nhớ ở thực tại lại trở nên hư ảo ngay trước mắt.

Sức hấp dẫn của bài thơ có lẽ phải kể đến sắc màu văn hóa dân tộc được Phạm Đào khắc họa bằng những nét vẽ mộc mạc, giản dị với những hình ảnh gắn liền với cuộc sống của đồng bào. Quả còn xanh gợi nhắc trò chơi ném còn – một trò chơi dân gian không thể thiếu ở các hội xuân  vùng cao. Chiếc khăn quàng cổ có thể là chiếc khăn piêu của các thiếu nữa dân tộc Thái. Theo quan niệm của người Thái, chiếc khăn piêu chính là tín vật trong tình yêu lứa đôi. Trong bài ca dao Khăn thương nhớ ai chiếc khăn là hình ảnh ẩn dụ cho nỗi nhớ trong tình yêu lứa đôi. Ở đây tác gải Phạm Đào đã mượn chất liệu văn hóa dân gian để thể hiện cung bậc cảm xúc trong tình yêu là sự gợi dẫn tín hiệu văn hóa riêng của bài thơ. Hình ảnh Đêm hội xuân – ánh lửa đượm hồng, xòe chiêng là hình ảnh thực, gợi lên không gian văn hóa truyền thống của dân tộc Thái. Nhưng có lẽ, biên độ văn hóa mà Phạm Đào muốn thể hiện không chỉ gói gọn trong một lễ hội, một dân tộc, một địa điểm cụ thể. Hình ảnh áo chàm – biểu tượng cho con người miền núi nghĩa tình son sắt lại được tác giả khéo léo sử dụng trong không gian của ký ức và hiện tại, vừa để khẳng định không gian văn hóa mang tính cộng đồng của các dân tộc vừa là biểu trưng cho tình yêu thủy chung của cô gái. Có người đọc sẽ thắc mắc, giữa không gian văn hóa dân tộc Thái tiếng khèn môi xuất hiện có phải là sự “bất ổn”? Không. Hoàn toàn không “bất ổn”, bởi ẩn ý sâu xa của tác giả là sự hòa quyện văn hóa của nhiều dân tộc sẽ làm nên chất xúc tác cho tình yêu nghệ thuật thăng hoa. Và câu chuyện tình yêu lứa đôi từ bao đời đã phá vỡ những giới hạn mà người đời tự gán cho nó. Do vậy, nếu gò bó Hội xuân

vào một địa chỉ văn hóa cụ thể mà quên vắng cảm xúc thì thơ chỉ là trò chơi sắp xếp con chữ sao cho vần mà thôi. Thông điệp sâu sắc mà tác giả muốn gửi đến bạn đọc không chỉ đơn thuần là sự trân trọng tình yêu lứa đôi mà còn là sự trân trọng cảm xúc của người sáng tạo trên hành trình đi tìm cái Đẹp của cuộc đời; giá trị đích thực của nghệ thuật.

 

Sẽ là thiếu nếu không nhắc đến cấu trúc đặc biệt của bài thơ. Cấu trúc là cách tổ chức tác phẩm và ở đây Phạm Đào đã tổ chức hệ thống ngôn ngữ theo cách riêng của mình. Tác giả gần như không sử dụng dấu câu, chỉ dùng dấu ba chấm ở câu thơ cuối cùng. Tôi cho rằng, sự phá cách này đã thể hiện trọn vẹn tâm trạng mông lung, rối bời, bất lực, nhớ nhung, đau đớn của cô gái dân tộc Thái nói riêng và tấm lòng thủy chung, son sắt trong tình yêu của người phụ nữ vùng cao nói chung. Chính vẻ đẹp ấy của cuộc đời đã thăng hoa trong cảm xúc của tác giả để có một Hội xuân đầy ấn tượng, đẹp đẽ trong lòng bạn đọc.

Nhà thơ Tố Hữu cho rằng: Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn. Vì thế, Hội xuân là sự rung động của Phạm Đào với vẻ đẹp của cuộc sống vùng cao khi hòa nhịp tình yêu và văn hóa trong bản giao hưởng của tâm hồn. Và sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và cuộc đời tạo nên vẻ đẹp riêng trong thơ chị, góp phần định hình phong cách thơ trữ tình Phạm Đào trong dòng chảy văn học nghệ thuật Lai Châu.

Thuận Nguyên


Bài viết liên quan


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.