Bà Thủy thẫn thờ lặng nhìn lại một lần nữa toàn bộ khu lăng vừa hoàn tất. Nhìn từng tấm bia được gắn ngay ngắn, trang trọng trên mỗi ngôi mộ rồi quay nhìn sang Hòa – anh con trai, niềm vui duy nhất của bà mấy chục năm qua, mắt bà ươn ướt. Nếu khóc được bà lại nấc lên từng hồi như cái hôm đưa hài cốt của bà cụ về đây. Bà cố kìm giọt nước mằn mặn từ khóe mắt cứ trực trào ra và nở một nụ cười trên đôi môi khô héo.
– Về thôi mẹ, muộn rồi!
Câu nói của Hòa cắt ngang dòng suy nghĩ của bà Thủy. Bà lẳng lặng trèo lên sau chiếc wave alpha, bấu chặt lấy sườn áo của con như sợ ngã. Ngồi sau xe, dù được tấm lưng to như cánh phản của Hòa che chắn nhưng cơn gió bấc cuối năm hun hút thổi qua tai vẫn khiến bà phải so vai vì lạnh.
*
* *
Chiều muộn, những đám mây xám xịt nặng nề xà xuống khiến bầu trời như thấp hơn, từng con đường đi qua như dội về trong bà những âm vang của năm tháng xưa cũ. Ngày ấy, Thủy còn là một thiếu nữ đoan trang, thùy mị. Con nhà nghèo nhưng được học hành, dạy dỗ đến nơi đến chốn. Thủy biết kính trên nhường dưới, ăn trông nồi ngồi trông hướng. Nhà Thủy lúc ấy, tối tối dập dìu trai làng trên xóm dưới tới tìm “trồng cây si”. Nhưng Thủy chỉ ưng mỗi Hưởng. Hưởng cùng học phổ thông với Thủy, tính tình hiền hòa, biết thông cảm với gia cảnh cơ hàn của cô.
Thủy về làm vợ Hưởng trong sự tiếc nuối hậm hực của đám trai bấy lâu theo đuổi. Những tưởng bốn năm yêu đương mặn nồng khi về chung một nhà thì hạnh phúc sẽ vẹn tròn. Có ngờ đâu, đám cưới vừa xong thì mẹ chồng cô cứ ra lườm vào nguýt, bà bóng gió rằng con nhà nọ nhà kia ở xóm trên làng dưới lấy vợ lợi đủ bề. Đón dâu, nhà gái trao tay vòng nọ nhẫn kia, sáng loáng cả mặt. Rồi bà chép miệng khinh khỉnh lườm con dâu. Thủy muốn nói gì đấy mà cổ họng nghèn nghẹn như có người bóp hầu, thành ra không thốt được lời nào. Thủy cặm cụi làm việc cố tránh ánh mắt hình lưỡi dao của mẹ chồng. Những buổi trưa, nằm nghỉ trên chiếc giường thơm mùi gỗ trong gian buồng nhỏ mà cô cứ thấp thỏm như mẹ chồng cô vẫn đang ngồi vắt vẻo trên chiếc ghế trường kỷ giữa nhà nhìn xuyên vào buồng, soi rọi mọi ngóc ngách.
Thủy mồ côi mẹ ngay từ lúc chào đời. Mẹ dồn chút sức lực cuối cùng cho Thủy chào đời cất tiếng khóc oe oe. Mẹ băng huyết. Trạm xá xa bệnh viện huyện, võng cáng chưa kịp đưa mẹ về đến viện huyện thì mẹ đã tắt thở. Khó nhọc lắm bố mới nuôi Thủy được ra tấm ra hình. Khi Thủy đi lấy chồng thì thân hình vâm váp của bố thuở thanh xuân chỉ còn lại là một ông già lẻo khẻo. Thủy vốn khát khao tình yêu của mẹ. Lúc mới về nhà chồng, Thủy muốn sà vào lòng mẹ để được cảm nhận hơi ấm từ con tim của một người cô gọi bằng mẹ. Thủy khao khát được gọi tiếng mẹ thiêng liêng từ thuở ấu thơ. Trái với mong đợi, mẹ chồng Thủy không ôm cổ, vuốt mái tóc dài sau lưng như cô tưởng tượng trước đó. Bà viện cớ đẩy cô ra.
Thủy cố làm vừa lòng mẹ chồng, cố tìm cách gần gũi bà nhưng càng ngày bà càng xa lánh con dâu. Bà luôn tìm cớ, tìm lời lẽ cay nghiệt trì chiết Thủy. Những năm tháng sau đó, cuộc sống của Thủy gần như địa ngục trần gian. Thủy tất bật đi làm rồi trở về nhà chăm con, nấu nướng quét dọn giặt giũ cho cả nhà nhưng chưa bao giờ bà hài lòng, chưa một lần bà niềm nở với Thủy. Khi Thủy sinh em bé, bà cũng không tha. Ngày đêm những tiếng rin rít cay nghiệt của bà vẫn ra rả bên tai Thủy. Cuộc sống gia đình bức bối, ngột ngạt. Thủy bị trầm cảm một thời gian dài. Thấy con dâu trầm cảm, bà thúc giục con trai bỏ vợ, bà dỗ dành Hưởng trước mặt bạn bè của con trai và trước mặt con dâu: “Bỏ nó, mẹ cưới vợ khác cho. Thằng bé cho mẹ nó nuôi, sau này lớn nó theo thì coi là con, không theo coi như giọt máu rơi!”.
Những áp lực từ mẹ, những bộ hồ sơ xin việc ra đi không có lời hồi đáp khiến Hưởng mất phương hướng. Gã đổ mọi tội lỗi lên đầu vợ, gã lèm bèm trong những cơn say: “Tại mày tao mới ra nông nỗi mày, mày ám quẻ đời tao”. Gã lao vào những cuộc đỏ đen thâu đêm suốt sáng. Khi nhẵn túi, gã về nhà lục soát vợ, có tiền thì gã huýt sáo đi tiếp không có thì gã hằn học chửi bới thậm chí đánh sấp đập ngửa vợ. Có bữa đang ngồi ăn cơm, bỗng nhiên gã cầm chiếc đũa xỉa thẳng vào mắt Thủy và nói: “Nhìn cái mặt lầm lầm, lì lì của mày tao chỉ muốn đánh”. May mắn, Thủy kịp tránh cú xỉa tai hại về phía con mắt vô tội của cô. Có lần, gã đi đâu đó vài ngày mới về, thấy vợ đang thái rau nấu cám lợn, giống đực trong gã trỗi dậy. Gã kéo tay vợ lôi xềnh xệch vào buồng. Vùng vẫy thoát được khỏi tay gã, Thủy chạy ra ngoài sân, tiếp tục băm rau lợn. Bực tức, gã ôm đống chăn, gối, áo quần của Thủy nhét xuống gầm chuồng gà rồi lớn tiếng đe nẹt: “Mày tưởng mày là lá ngọc cành vàng à? Đừng có mà lên mặt với tao, thối như… gà sát ý!”. Nói rồi, lại chân lọ vắt chân kia gã đi ra cổng.
Thủy rùng mình, nổi gai ốc như người ốm dậy gặp phải cơn gió độc mỗi khi nhớ lại những trận đòn man dại từ người đã từng thề non hẹn biển, đầu gối tay ấp với mình. Những trận đòn tím tái mặt mày khiến lúc nào ra đường Thủy cũng phải cúi gằm mặt xuống né tránh tất cả những ánh mắt dò xét của người quen. Đôi mắt hồn nhiên trước đây, giờ lúc nào cũng ngân ngấn nước, thâm quầng.
Chỉ có cậu bé Hòa thông minh, nhanh nhẹn, ngoan ngoãn, biết nghe lời mẹ là niềm vui sống duy nhất của cô. Ngày thấy mẹ sấp mặt quần quật làm việc đến teo tóp cả người mà bố cứ nhởn nhơ rong chơi hết làng trên xóm dưới với quán xá nhậu nhẹt, Hòa thương mẹ lắm. Có đêm, trong giấc ngủ Hòa nghe tiếng khóc. Càng lúc tiếng thút thít càng to, Hòa muốn gọi ai đó cứu người mà tiếng gọi không thoát ra được khỏi cổ họng. Ú ớ, quờ quạng mãi, Hòa choàng tỉnh. Cậu bé nghe thấy tiếng bà nội ỉ eo nhà ngoài. Trong ánh sáng vàng vọt tỏa ra từ bóng đèn ngủ quả nhót, Hòa thấy mẹ quay lưng lại phía cậu, mặt hướng ra ngoài phía cửa sổ. Không biết có phải mẹ khóc hay người trong giấc mơ của Hòa đang sụt sịt. Hòa vòng tay ôm mẹ từ phía sau.
Một buổi chiều cũng mùa đông, trời xám xịt nặng nề, gió bấc thổi dài trên con đường làng chạy ra đồng, có tiếng xì xầm sau lưng rồi một người đàn bà gọi Thủy dừng lại khi cô tất bật gánh đôi thùng ra mảnh ruộng đầu thôn tưới rau. Cô Quýt – tên người đàn bà, nói oang oang: “Rau cỏ tưới tắm làm gì nữa, hai mẹ con ăn đáng bao nhiêu mà làm nhiều thế cháu?”. Rồi cô thì thầm: “Cô bảo này, vừa nãy cô thấy chồng cháu lên tac-xi cùng đứa con gái mắt xanh mỏ đỏ, mang theo cả vali quần áo đi hướng về thị trấn”. Thủy thở dài đáp lời bà cô họ xa của chồng mà lòng không cảm xúc: “Cũng là cái số của cháu cô ạ!”. Dường như, mọi biến cố với Thủy giờ đây cô không thấy lạ mà cũng chẳng thấy quen.
Dăm ngày sau đó, mấy gã xăm trổ đầy mình đến chìa ra tờ giấy Hưởng cầm cố nhà, nướng vào cuộc đỏ đen. Chúng nạt nộ, vứt tứ tung đồ đạc ra sân. Mẹ chồng cô tru tréo chửi rủa bọn côn đồ, lưu manh nhưng cuối cùng bà vẫn phải ôm di ảnh chồng cùng cô con dâu tay xách nách mang đứa con nhỏ và vài ba bộ quần áo nhàu nhĩ rời khỏi nhà. Mẹ con, bà cháu dắt díu nhau đến tá túc trong căn nhà của người bà con họ xa của Thủy ở xóm dưới. Ngôi nhà bỏ không đã lâu ngày nên mốc ẩm, bụi bặm. Phải mất mấy ngày dọn dẹp, sửa sang ngôi nhà cũng dần trở lại ấm cúng.
Ba người bấu víu vào nhau chắt chiu nhặt nhạnh sống qua ngày. Nhớ con trai, tủi phận, mẹ chồng Thủy lâm bệnh. Thủy chăm lo thuốc thang cho bà tươm tất nhưng thuốc bệnh không trị được tâm bệnh. Bà qua đời mà Hưởng vẫn biệt vô âm tín. Nghe người làng đồn, gã bị cô bồ đá khi trong tay không còn đồng xu lẻ. Xấu hổ không dám về làng, gã dật dờ đi làm thuê cho tàu cá ở mãi tận miền trong. Thủy lặng lẽ lo tang ma cho mẹ chồng chu đáo. Trước khi về với tổ tiên bà giao cho Thủy cuốn sổ tiết kiệm hai ông bà chắt chiu dành dụm từ ngày còn trẻ. Bà định chờ con trai về cho nó ít vốn làm lại cuộc đời nhưng ngắn dài có số, tươi héo ở trời bà không chờ được. Bà cũng tỏ lòng ân hận về cách cư xử của mình với con dâu trước đây.
Sau khi lo tang ma cho mẹ chồng chu đáo, Thủy cặm cụi làm ăn, buôn ngược bán xuôi. Vài năm sau, cô tích cóp được ít vốn mua được rẻo đất cuối làng.
Hòa càng lớn càng to khỏe, đẹp trai, học giỏi và ngoan ngoãn. Hết trung học phổ thông cậu đỗ hai trường đại học Luật và Bách khoa. Cậu theo học trường luật. Ngày nhập học, Hòa nói với mẹ: “Con học ngành Luật để bảo vệ công lí, bảo vệ mẹ khỏi bị người ta bắt nạt”. Nghe con nói, bà Thủy vừa mừng vừa tủi mắt ngân ngấn lệ. Bà bị người ta bắt nạt thật. Dân gian vẫn có câu: “Chòng chành như nón không quai/ Như thuyền không lái, như gái không chồng”. Còn Thủy có chồng mà cũng như không, chẳng biết bấu víu vào ai. Nhớ cái đận mua rẻo đất, thằng cha Bạo trưởng thôn ve vãn. Mỗi lần nhớ lại thấy tởm cái mặt ấy, mồm thì leo lẻo dẻo như kẹo kéo: “Anh là anh thương em khó khăn, đơn chiếc nên chỉ lối dẫn đường như thế đấy chứ người khác thì anh thây kệ!”. Thủy nhã nhặn “Vâng, mẹ con em biết ơn anh!”. “Anh bảo này…”. Vừa nói hắn vừa nhấc mông, kéo ghế lại gần Thủy hơn, mặt ghé sát tai Thủy thì thầm ra điều bí mật hệ trọng. Tay hắn đặt vào đùi Thủy. Thủy bật dậy như chiếc lò xo bị nén bỗng được thả tung, giơ tay tát đánh bốp vào cái mặt nhờn nhờn những mỡ là mỡ của Bạo rồi không nói không rằng đứng lên đi một mạch về nhà.
Một mình bươn bả, trải qua bao nhiêu khó khăn, lăn lộn đi trùng chân mỏi gối Thủy mới cầm được trong tay giấy phép xây dựng. Có được gian nhà nho nhỏ để ở, ấm thân người sống, Thủy lại nghĩ đến bố mẹ chồng và các cụ. Cả thôn chỉ có khoảng năm, sáu họ. Mươi năm trở lại đây họ nào cũng có lăng mộ quy tụ các cụ về một chỗ. Nhà Thủy mình một họ, đơn lẻ, bố chồng cô mất sớm không kịp đưa các cụ về tập trung, chồng cô thì… Nhớ đến Hưởng, Thủy rầu ruột. Giá như… Rồi Thủy lại tự an ủi chấp nhận số phận. Thủy nín thinh ngủ thiếp trong những đêm đông giá buốt bỏ giở những dằn vặt, mơ tưởng của người đàn bà chòng chành.
*
* *
Cái nghĩa địa hiu quanh của thôn nằm im lìm cuối cánh đồng làng. Giữa đêm khuya hiu hắt tiếng ếch nhái, cú mèo, chim lợn dội vào làng khiến những đứa trẻ hay quấy khóc nghe thấy cũng rúm lại nín bặt. Ngoài khu lăng các họ khác xây cất vuông vức và một khu dành cho người mới nằm xuống hay còn gọi là nơi chôn cất xác tươi thì ngay lối cổng vào vẫn còn một cái ao nhỏ. Từ thời cô mới về làm dâu, cái ao đầu nghĩa địa vẫn bị bỏ hoang để mỗi lần cải cát cho một người quá cố nào đó thì những tấm ván áo quan gia chủ thả xuống đấy ngâm, nhà nào cần đến thì ra vớt lấy mang về đóng chuồng gà, cầu ao… Cỏ lau, bèo dại mọc tùm lum, lấn lướt.
Tay bưng chén nước chưa kịp uống, bà Thủy ngọt nhạt: “Mong cháu xét cho, cái ao ở cổng vào nghĩa địa, cô đã thảo đơn, cháu ký xác nhận giúp cô, để cô trình xã rồi cho đổ đất, lấy chỗ quy tập mộ các cụ rải rác ở các đồng về. Cũng để chọn ngày lành tháng tốt cô đưa mẹ chồng cô lên kẻo dạo này cô cứ mơ bà bảo dưới ấy lạnh lắm”. “Cô cứ về, để đơn lại ban thôn họp xét”.
Bà Thủy vừa ra đến đầu ngõ thì trong nhà điện thoại réo vang, trưởng thôn bắt máy: “Alo, bác Bạo à? Cháu đang có chuyện muốn bác hỏi đây”. “Việc gì, bác thấy cái bà Thủy vào nhà cháu, có việc liên quan đến bà ấy à?”. “Thì đấy, cháu muốn hỏi bác việc bà ấy xin lấp cái ao ở cổng ra vào nghĩa địa của thôn”. “Ờ, ờ, bác chả gì cũng là bác ruột của anh đấy, bố anh còn nhìn thấy mặt trời sau bác đấy. Chả gì bác cũng trưởng thôn mấy khóa ở cái thôn này đấy. Có gì anh sang nhà bác ngay. Bác chỉ cho đường đi nước bước, chứ nói chuyện qua điện thoại tốn tiền bỏ mẹ”. “Vâ…ng”.
Trưởng thôn trẻ chưa kịp vâng hết câu thì đầu máy bên kia đã tắt phụt. Tất bật, trưởng thôn vơ cái mũ cối đội lên đầu, cắp cuốn sổ có cài sẵn cái bút bi trên bàn, trưởng thôn trộm nghĩ: ông bác mình rõ hay nói câu nào cũng phải có từ “đấy” lại còn kiệt nõ. Rồi khệnh khạng sải chân hướng về nhà bác Bạo. Tối hôm ấy, người ta thấy họ cạch chén, rì rầm với nhau đến tận khuya.
*
* *
Sáng chủ nhật trời trong veo. Dù mặt trời đã le lói phía đằng đông nhưng mỗi trận gió heo may cuối mùa vụt qua vẫn làm người ta thấy lạnh. Khoác thêm chiếc áo gió, bà Thủy bưng từ bếp lên nhà trên hai tô bún bò đặt trên chiếc khay inox xinh xắn. Món ăn sáng yêu thích của Hòa mà ngày nghỉ của con dù bận bao nhiêu bà vẫn dành thời gian nấu cho con. Đặt bát bún lên bàn, bà gọi: “Xong chưa, vào ăn sáng cho nóng Hòa ơi!”. “Vâng, con vào ngay đây!”. Trong lúc Hòa ăn ngon lành thì bà dùng đũa gắp sợi bún lên cuộn tròn quanh đũa rồi cứ nhìn chằm chặp vào tô bún. Hòa giục mẹ: “Sao mẹ không ăn đi, hay mẹ còn lo lắng điều gì?”. Bà Thủy dõi mắt ra vườn, nhìn đám lá khô xào xạc thở dài: “Trời sắp sang đông, lại hết năm đến nơi rồi!”. Nhìn khuôn mặt đầy lo âu của mẹ, Hòa đoán chắc lại cái vụ đổ đất, xây lăng, cải cát cho bà nội và đưa các cụ về khiến mẹ phiền lòng. Hòa nói, vừa để an ủi mẹ vừa như để sắp xếp công việc: “Mẹ để con gọi người đổ đất, năm lần bảy lượt họp thôn rồi, không ai đưa ra bàn bạc. Chờ gì nữa mẹ? Cũng không để bà nội con ở dưới ấy lâu hơn được nữa đâu! Đơn con đã gửi thẳng xuống xã từ tuần trước rồi mẹ ạ! Ông chủ tịch xã cũng đã phê duyệt”.
*
* *
Thuổng buổi ngày đông, con Nu bé xíu, trắng như tuyết đang phơi nắng ở giữa sân phi vào trong nhà, ngoạm gấu quần Hòa giật giật rồi ăng ẳng sủa. Chiếc xe máy cũ kĩ phành phạch tiến vào sân. Dừng xe giữa sân, hai chân co lên gác-ba-ga dáng điệu vừa khệnh khạng vừa như để đề phòng con Nu bé xíu. Hất hàm về phía Hòa, trưởng thôn trẻ hỏi: “Bòi ơi, mẹ mày có nhà không?”. Con Nu nghếch mặt về phía trưởng thôn sủa ăng ẳng như muốn hỏi: “Ông gọi thế là thế nào?”. Không thấy Hòa trả lời, trưởng thôn bực tức quát lớn: “Thằng bòi! Mẹ Thủy mày có nhà không? Bảo mẹ mày ra nghĩa địa ký biên bản đình chỉ công trình xây dựng trái phép”. Hòa đứng dậy, bước ra sân, nhỏ nhẹ: “Anh dựng xe, em nhờ cái này cái chút”. Trưởng thôn gắt nhẹ nhưng trong giọng nói không giấu nổi sự hớn hở vừa chợt đến: “Bảo gì nhanh nhanh cái, anh bận lắm. Cả cái thôn này bao nhiêu việc đổ hết lên đầu anh, nhưng mày nhớ canh con chó cho anh”. Trưởng thôn dựng xong cái xe, đứng trên sân gạch, Hòa cũng vừa kịp đi tới đứng sát trưởng thôn như để nhắc rằng, anh ta có đi giày da độn đế năm phân thì cái chỏm tóc cao nhất của anh ta so với vai Hòa cũng chưa thể tạo ra một đường thẳng, mà đường kẻ ấy vẫn lệch chúi xuống đất dốc về phía chỏm tóc trưởng thôn. “Các anh chưa đủ thẩm quyền để đình chỉ công trình nhà tôi, các anh cứ mời đủ ban bệ với đúng chức trách, mẹ tôi sẽ ký, nhà tôi sẽ dừng thi công”. “Ơ, cái thằng này! Láo!”. Sầm mặt, trưởng thôn quay xe phi ra đường để lại trong sân một mảng khói từ ống pô nhả ra với mùi xăng nồng nặc, con Nu ăng ẳng sủa với theo đến cuối ngõ. Hòa gọi nó quay vào, vuốt nhẹ bộ lông óng ả, trắng mượt của Nu như khen nó ngoan.
*
* *
Cuối đông, từng cơn gió vun vút thổi táp làm sóng sánh ánh nước cánh đồng thôn Thượng, cánh đồng mới được Hợp tác xã chỉ đạo cho xả nước vào. Nước mùa này trong vắt và lạnh ngắt. Vài cọng cỏ ngoi lên khỏi mặt nước, mỗi trận gió tới, cỏ bị ép rạp mình xuống sát mặt nước lạnh ngắt ngơ. Đồng vắng vẻ, hiu hắt. Người làng từng tốp thì rủ nhau ra thành phố làm thuê đủ nghề đủ việc, tốp thì rủ nhau chạy chợ kiếm Tết.
Hôm nay, góc cuối đồng giáp thôn Trung có một nhóm nhỏ khoảng ba bốn thợ xây đang trộn vữa, xây, trát, cắt gạch… Tiếng trò chuyện rôm rả của họ hòa với tiếng bay xây gõ gạch trên tay bác thợ cả làm cho góc đồng bớt hiu quạnh. Một khuôn viên khá đẹp và tôn nghiêm đang được hình thành. Bác thợ cả hồ hởi: “Làm nốt nhà này cho các cụ nhà bà Thủy về an nghỉ trong lăng rồi mấy anh em chú cháu mình nghỉ Tết là vừa. Kể ra, anh cán bộ địa chính xã này cũng giải quyết hợp tình hợp lý chứ cứ khăng khăng bắt đình chỉ thi công công trình tôn nghiêm như ban thôn mà năm hết Tết đến nơi rồi thì thật khó cho nhà bà Thủy. Các cụ cũng cần một chỗ cao ráo nghỉ ngơi”.
Ông Khoan vừa đảo vữa vừa tiếp lời bác thợ cả: “Cái lăng này hóa ra lại thành đẹp nhất thôn đấy nhỉ. Cao ráo, sạch sẽ, vuông vức ngay sau cổng vào nghĩa địa. Đúng là trâu chậm uống nước trong”.
Bà Thủy xách một tích nước chè xanh nóng hổi, một túi bánh rán đường và phong kẹo lạc đứng trước cổng lăng. Bà đon đả: “Em mời các bác thợ nghỉ tay xơi nước, ăn kẹo rồi lại giúp em tiếp ạ!”. Mấy anh em thợ nghe tiếng bà, bỏ đồ nghề, xoa tay đến bên ấm nước. Mỗi người đặt một viên gạch làm ghế ngồi xung quanh tích nước. Thuận – thợ trẻ nhất, rót nước mời mọi người. Ông Khoan uống nước, nhai kẹo rồm rộm rồi nhìn bà Thủy, nói: “Phải công nhận cái thằng cháu Hòa nhà bà nó học rộng, hiểu nhiều nên cũng chả phải dễ gì ai bắt bẻ được. Thế mới phải đến anh xã giải quyết. Mấy lần thôn đình chỉ, mấy lần hòa giải cuối cùng thì vẫn là anh xã giải quyết thấu tình đạt lý. Thuận cả lòng người sống, mát mẻ cả hồn người đã khuất”. Bác thợ cả tiếp thêm: “Này bà, không phải duy tâm đâu, nhưng tôi nhìn tướng mạo và xem vận số ngày sinh tháng đẻ thì cái thằng cháu Hòa nó được lộc từ cái lăng này đấy! Cũng là may mắn, phúc đức cho nhà cụ chứ cứ như anh Hưởng thì mồ mả tiên tổ có khi cũng không biết đâu mà lần. Rồi đây làng ta, xã ta lại có anh cán bộ to đấy”. Nói rồi bác cười khà khà và giục mọi người tiếp tục công việc.
Trong câu chuyện của những người thợ xây, bà Thủy thấy như có gió xuân đã đến góp. Ngay đầu làng, hai chiếc máy bừa đang xuống đồng bừa ngả. Chỉ vài ngày nữa thôi, cả cánh đồng này sẽ trở lên nhộn nhịp bởi những tay cấy hứa hẹn một mùa lúa mới đầy ăm ắp như mâm xôi bà dâng cúng tổ tiên ngày khánh thành công trình tôn nghiêm này. Bà cũng mong một ngày nào đó, gần đây thôi, ông Hưởng trở về quê cha đất tổ cùng anh con trai bà trông nom hương hỏa các cụ. Và Hòa sẽ đem hết tâm sức cống hiến cho quê hương.
THANH TÁM
>>> Xem thêm: Tạp chí Văn nghệ Lai Châu