Gió từ bản Nủa

 

Sau vụ tai nạn khiến gã phải nằm một chỗ mất nửa năm, vừa khỏe lại, gã đã xách ba lô lên đi tìm cô ta. Người đàn bà cầm hết tiền nong của nả của gã sau những lời ngon ngọt tình ái của một đêm say thì biến mất vô tăm tích. Tiền mất có thể làm lại. Bạn bè đã khuyên gã như thế nhưng không hiểu tại sao gã vẫn cất công đi tìm ả. Chính gã cũng chẳng hiểu nổi mình.

Nhiều lúc nằm trên cái võng nghỉ đung đưa chợp mắt hay những lúc nhấm nháp vị cà phê đắng nghét của một cái quán ven đường, gã lại nghĩ về cái gì đó như là trả giá. Gã là kẻ không đức tin. Cuộc đời khổ sở lăn lộn nay đây mai đó làm kiệt cùng mọi suy nghĩ bướng bỉnh của gã. Gã đã suy nghĩ về cả cuộc đời mình. Không phải sự mất mát về vật chất hay sự đớn đau về tình cảm mà người đàn bà khốn nạn đó đã mang lại cho gã mà là chính gã đã làm sai điều gì đó, gã khiến cho người ta đau khổ thì cuộc đời sẽ khiến cho gã phải khốn cùng, đó là một cuộc chơi công bằng của đấng sáng tạo toàn năng.

Đêm gã bị tai nạn, một đêm trời nồng gió chướng, gã đương ngà ngà say nhưng vẫn cố chạy xe máy, gã rong ruổi vì điều gì, đêm ấy gã đã cố tìm cho ra. Gã chạy và chạy, gió vi vút luồn qua khe hở của mũ bảo hiểm, phía trước mặt gã từng luồng sáng của xe ô tô cứ ào qua. Đầu gã cứ nghĩ rằng những luồng sáng đó có chứa đựng cái lý do không hiểu nổi của cuộc đời gã. Gã đã cố đưa tay ra bắt, chỉ một chút nữa thôi và “ầmmm”. Gã chẳng còn biết gì nữa.

Trong tài khoản chỉ còn một ít tiền vừa đủ trang trải chi phí điều trị, hàng ngày gã phải lay lắt sống nhờ vào cơm từ thiện, vào lòng tốt của những người xa lạ, tình cảnh của họ cũng chẳng hơn gã là mấy nhưng sự rộng lượng của họ đã làm ấm lòng kẻ tứ cố vô thân. Một tình cảm quen thuộc nhưng lại làm gã thấy sượng. Gã đã quen nhìn cuộc đời với đôi mắt lạnh lùng, khô khan. Con người sống vì tình cảm quý lắm nhưng mà hiếm có trong thời đại mọi quy luật vận động xoay quanh đồng tiền.

Gã vừa mong muốn, vừa sợ sệt khi nhận được sự quan tâm của người khác. Nợ tiền có thể trả được nhưng nợ ân tình biết giá nào mà trả cho người ta. Mọi thứ, gã đều muốn rạch ròi. Một nửa năm ăn dầm nằm dề trong cái bệnh viện huyện để điều trị nội, ngoại, cả y học cổ truyền, gã đã thông thuộc từng lối sang các khoa, quen cả mặt các y, bác sỹ, cái mùi nước tẩy trong phòng bệnh mỗi ngày không còn khiến gã ồng ộc muốn nôn tất cả mật xanh, mật vàng ra nữa. Gã làm quen với những người bệnh, cả người nhà chăm sóc bệnh nhân.

Khi ở ngoài đường người ta có thể nhanh chóng lướt qua mặt nhau bởi cơm áo gạo tiền, bởi nỗi lo công cuộc mưu sinh khiến ánh mắt con người nhìn nhau như nhìn tận đâu đâu, tất cả chỉ chú mục vào công việc riêng của bản thân mình. Thế nhưng, khi vào viện rồi, người ta trút hết vỏ bọc lạnh lùng ấy ở ngoài cổng viện, sẵn sàng coi nhau như người nhà, là tình thân ruột thịt để nói chuyện, để san sẻ với nhau niềm vui nỗi buồn, san sẻ với nhau cả sự đau đớn của bệnh tật. Đấy là bản chất của người dân mình, sự giản dị đôn hậu không bao giờ mất đi ở những tầng lớp người lao động. Gã đã đúc kết lại như thế.

Trong không khí buồn buồn, ngột ngạt của mùi thuốc trong bệnh viện, của sự nhăn nhó khó chịu tức bực đau đớn của bệnh tật, gã đã hơn một lần nhớ tới nàng, người vợ cũng là mối tình đầu tiên của cuộc đời gã. Tình yêu sét đánh nó như thế nào? Là mới gặp người ấy, khuôn mặt ấy, dáng dấp ấy đã yêu, yêu vội vàng, yêu tha thiết, yêu bất chấp. Gã mặc kệ mọi lời căn ngăn, nào là gò má cao sát chồng, nào là lông mày xếch lấy về đè đầu cưỡi cổ chồng của bà mẹ hay lo xa, thậm tệ hơn là cái sự từ mặt của bố đẻ gã chỉ vì nhìn không thấy ưa, không môn đăng hộ đối với gã, với thanh thế gia đình gã. Gã vốn là một đứa con ngoan, nhưng vì tình yêu gã bất chấp từ bỏ tất cả để cưới nàng.

Một đám cưới đơn giản với vài ba mâm cơm mời bạn bè thân thiết, nàng không đòi hỏi gì ở gã vì cha mẹ nàng cũng đã mất cả. Cưới xong, cả hai người lâng lâng vui sướng, mọi khó khăn trong mắt vợ chồng gã lúc này chẳng có gì đáng kể so với niềm hạnh phúc lớn lao gần như nhất trần đời này. Ông trời có lẽ đã ghen tị với tình yêu nồng cháy của vợ chồng gã. Gã đã chắc chắn như thế khi vợ gã phát bệnh. Một căn bệnh lạ, y học còn đang bó tay. Ngày ấy, ung thư là cái gì lạ hoắc như cái hố đen ngoài không gian. Mọi người sống xung quanh gã chưa từng nghe nói về nó, không biết, không có kinh nghiệm chữa trị, gã lần mò khăn gói đưa vợ đi khắp nơi, ai mách thầy nào cũng tới khám. Tây y bó tay thì Đông y.

Gã chẳng quản ngại xa xôi, đưa vợ đi khắp các thầy lang ở miền xuôi miền ngược. Có người lắc đầu, có người khẳng định chắc như đinh đóng cột làm gã mừng húm. Thế nhưng cũng chỉ được vài thang thuốc bổ, bệnh tình của vợ gã vẫn vậy thậm chí ngày càng thêm trầm trọng hơn, vợ gã càng ngày càng gầy héo như tàu lá úa, đi đứng cũng không tự chủ được nữa. Nhiều đêm, vợ gã nằm bên cạnh đau đớn vật vã, cắn môi rên khẽ để gã không nghe thấy. Nhưng vợ gã thức thì gã cũng nào có ngủ, gã nằm im, thở đều, gã âm thầm khóc trong bóng tối lạnh lùng.

Buổi chiều chạng vạng hôm ấy, gã dìu vợ dừng chân ở bản Nủa. Có ông thầy nọ mách cho gã tới đây. Một bản nhỏ với những mái lá nhà sàn nằm lẫn trong những tán cây rừng heo hút. Không khí rất trong lành, mát mẻ khiến vợ gã tươi tỉnh trở lại. Gã hi vọng nơi rừng thiêng nước độc này sẽ chứa đựng một phương thuốc gia truyền bí hiểm, với một vị thầy lang cao tay sẽ chữa khỏi căn bệnh nan y cho vợ gã.

Gã hỏi thăm và được người dân chỉ cho tới một căn nhà nằm ở cuối bản, ngay cạnh một con suối đang mùa lũ, nước cuồn cuộn đục ngầu chảy ào ào ầm ầm đêm ngày nghe phát sợ. Gã nghe kể ông thầy lang này có cách chữa bệnh rất kỳ dị. Căn nhà sàn ông ta ở treo đầy những lá cây, nồng nặc những mùi hương kỳ lạ xen lẫn mùi ẩm ướt của tiết trời mưa gió lâu ngày. Gã cảm tưởng không chỉ thầy lang mà cả căn nhà sàn này cũng toát lên một vẻ âm trầm kỳ quặc. Thầy lang có vợ, một đứa con trai chừng mười tuổi và đứa con gái độ năm, sáu tuổi, tất cả đều ít nói, trưng ra một gương mặt khó hiểu, không quá vồn vã trước những người khách lạ như cách người ta vẫn thường thấy ở những người đồng bào thân thiện nơi những vùng xa xôi, hẻo lánh.

Gã dìu vợ theo bóng lưng vạm vỡ của ông thầy lang đi lên nhà sàn. Sau khi thắp ba nén hương lên một chiếc bàn thờ được che lại bằng một chiếc khăn màu đỏ, ông thầy lang và vợ chồng gã ngồi ở gian giữa nghi ngút khói hương để ông thầy lang bắt mạch cho vợ gã. Thời gian lạnh lùng trôi đi, gã toát mồ hôi hột theo từng thay đổi trên gương mặt với đôi mắt nhắm nghiền của thầy lang. Đột ngột, thầy lang đứng phắt dậy, chẳng nói chẳng rằng rút ra năm cây hương châm lửa đốt, múa một vòng quanh đầu vợ gã rồi lại cắm lên trước cửa nhà. Hai vợ chồng gã sửng sốt nhìn nhau, á khẩu. Quả là một ông thầy lang kỳ dị. Trong lòng gã lúc này đã đinh ninh ông ta sẽ có cách chữa khỏi cho vợ gã, gã thầm sung sướng với suy nghĩ ấy, gã trìu mến nhìn gương mặt bợt bạt thất thần của vợ gã.

Vợ chồng gã được thầy lang cho ở lại một gian buồng trong nhà, cách buồng ngủ của vợ chồng thầy lang hai tấm vải thổ cẩm dầy, bên trong tối om om. Cả một tuần sinh sống ở nhà thầy lang, ăn uống cùng gia chủ, gã đã quen với mùi vị những món ăn lạ hoắc mà rất ngon lành của chủ nhà, vợ gã uống thuốc lá của thầy ngày ngày cũng có vẻ bớt đau đớn. Một buổi sáng, gã còn chưa tỉnh ngủ hẳn, thầy lang đã gọi hắn xuống dưới gầm sàn, thầy lang bảo gã đi vào rừng cùng thầy tìm một vị thuốc còn thiếu, vị thuốc này rất hiếm phải có duyên mới gặp được. Thầy lang bấm ngày, đúng hôm nay vào rừng giờ này may ra thì gặp được.

Trời hửng nắng sau mấy ngày mưa lớn, con đường nhỏ đi vào khu rừng vẫn trơn trượt, từng giọt nước thi nhau nhỏ xuống từ các tán lá tí tách. Gã không thông thuộc rừng, gã khó khăn lắm mới bám theo kịp thầy lang. Khi gã đụng vào người thầy lang trong rừng già, gã đã chứng kiến một cảnh tượng hi hữu. Dưới một gốc cây cổ thụ, một đôi rắn đang quấn vào nhau, một con màu trắng, một con màu đen. Thầy lang bảo với gã, rắn trắng trong truyền thuyết tổ tông nhà lão là rắn thần, nếu bắt được một trong hai con rắn này về làm thuốc dẫn thì cam đoan vợ gã sẽ khỏi nhưng phải do chính tay gã bắt mới được. Mặc dù chân gã run lẩy bẩy nhìn hai con rắn khổng lồ đang nằm gần như bất động trước mặt, cách gã có ba bước chân nhưng khi nghe lão thầy lang nói như thế, gã chẳng chần chừ cầm lấy cây gậy có một đầu sắc nhọn mà lao tới. Gã đánh chết con rắn đen, còn con rắn trắng rất khỏe đã vùng chạy mất, dù trên mình nó cũng dính vài vết thương. Gã mang xác con rắn về trong lòng khấp khởi mừng thầm, sức khỏe của vợ gã rồi đây sẽ tiến triển tốt đẹp.

Buổi chiều hôm ấy trời đổ cơn mưa to gió lớn, gã cùng thầy lang ngồi uống rượu với thịt rắn nướng bên bếp lửa nhà sàn ấm áp. Khi đã ngà ngà say, gã nằm vật ra sàn ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Trong cơn mơ, gã thấy mình lạc vào một núi toàn tượng rắn khổng lồ, gã nhìn lên đỉnh núi, một đầu rắn lớn với đôi mắt phát sáng nhìn gã đầy tức giận, gã luống cuống chới với trong một nỗi sợ hãi tột cùng. Gã choàng tỉnh dậy vào giữa nửa đêm, gã nghe có tiếng lắc rắc đổ vỡ từ xa vọng lại, linh tính mách bảo, gã lần hồi trong bóng tối bế thốc vợ gã rời khỏi căn nhà sàn chạy vào giữa bản trong đêm khuya mưa gió bão bùng. Khi đã gửi được vợ vào nhà của một người xa lạ tốt bụng, gã mới định thần quay lại căn nhà sàn của thầy lang. Trong ánh đèn pin loang loáng, căn nhà thầy lang biến mất không một dấu vết như thể ở chính chỗ khoảnh đất này chưa từng tồn tại một căn nhà sàn với những con người như thế.

Cả đêm ấy và tới tận buổi chiều ngày hôm sau người trong bản mới tìm thấy đứa con gái út của nhà thầy lang mắc lại trên một cái cây chìa ra suối, cách nơi xảy ra tai họa vài cây số. Thật may mắn, đứa bé chỉ bị xây xước ngoài da, cả người nó tím lại run lên bần bật vì lạnh. Khi người ta đưa nó về bản, gã cũng có mặt ở đấy. Cả nhà thầy lang bị lũ cuốn trôi mất tích, có lẽ cả ba người còn lại trong cái gia đình nhỏ bé đó đã vùi xác ở đoạn suối nào đó rồi. Vợ chồng gã và đứa bé là những người may mắn sống sót.

Người trong bản bảo nhau rằng, chưa khi nào thấy nước suối to, dữ tợn như thế, lũ quét cuốn trôi cả một căn nhà sàn thực là sự quá khủng khiếp. Vài người xấu miệng thì lại khẳng định chắc chắn thầy lang đã làm điều gì đó ác, phạm tới thần linh chứ chỗ đất đẹp đó được tổ tiên thầy lang chọn, sống mấy đời ở đây, mưa to đến đâu, nước lũ lớn về tới đất ấy chỉ chạm tới chân cầu thang đã rút đi rồi. Gã thì cứ thẫn thờ nhìn chòng chọc vào lớp đất đá bị quét đi cứ như một đường trườn khổng lồ của con rắn thì đột nhiên cứ lạnh hết cả sống lưng.

Gã quyết tâm đưa vợ gã trở về, trước khi đi, gã gặp đứa con của thầy lang, gã đưa cho đứa bé một món tiền để trả cho ân nghĩa của thầy lang đã cứu chữa cho vợ gã thời gian qua. Đứa bé ngồi im lìm, không nhìn gã, không nói năng gì, y như ngày đầu gã nhìn thấy nó khi mới đặt chân tới bản Nủa này. Khi gã dợm chân định bước đi thì đột nhiên đứa bé trở lên dữ tợn, hai đôi mắt ngầu đỏ long sòng sọc, nó lao thẳng về phía gã mà cào cấu. Gã sợ xanh mắt mèo. Người nhà thầy lang phải khó khăn lắm mới giữ được đứa bé. Gã bồn chồn ra khỏi bản Nủa đầy ám ảnh, từng cơn gió thổi qua người gã cứ mang mang rờn rợn như có đôi mắt đang rình theo từng bước chân gã. Gã đã đi khỏi bản Nủa thật nhanh như chạy trốn.

Về tới nhà một tháng thì vợ gã chết. Nỗi đau chia lìa này đã choán lấy hoàn toàn thân thể gã, khiến gã quên đi hoàn toàn câu chuyện ở bản Nủa. Mãi tới khi vào viện, thi thoảng gã lại mơ thấy đôi mắt giận dữ chất chứa đầy đau khổ của đứa bé con gái thầy lang khi ấy. Hình ảnh ấy cứ lặp đi lặp lại trong những cơn ác mộng gần đây của gã. Đột nhiên, vào một ngày, gã chợt nhận ra đôi mắt ấy rất quen thuộc mà gã không nhớ mình từng thấy ở đâu. Gã nặn hết phần trí não thông thái còn lại trong cái đầu bùng nhùng của mình. Phải rồi, chính là đôi mắt của ả. Vậy nhưng, giờ ả đã biệt vô tăm tích, gã biết tìm ả ở đâu mà hỏi cho ra nhẽ. Gã lần hồi ký ức, đã sắp đến khoảng thời gian mà lần đầu tiên gã đặt chân tới bản Nủa. Gã đã biết phải tìm ả ở đâu. Gã sắp xếp đồ đạc, dong xe máy ra đi, gió lùa qua tai hắn vi vút, lòng gã bồi hồi mong ngóng một điều gì mà gã tưởng rằng đã đánh mất lâu lắm rồi.

ĐẶNG THÙY TIÊN


Bài viết liên quan


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.