1.
Đêm Tam Đảo lung linh huyền ảo, đẹp đến khó cưỡng.
Những trại viên trẻ của Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam từ các tỉnh thành rủ nhau check-in ở những view đẹp như chốn bồng lai sau một ngày miệt mài trên những trang viết của mình.
Cánh trại viên già – kể cả người viết chuyên và không chuyên đều lo nghỉ sớm để mai còn cày tiếp trên cánh đồng chữ nghĩa riêng mang.
Ái Lâm trằn trọc không sao chợp mắt được, chân không muốn nhúc nhích mà cái đầu lại thầm thì nhắc: “Muốn ra ngoài quá thôi! Ở trong phòng sao tù túng ngột ngạt quá vậy?”. Dù Tam Đảo mùa này mát mẻ lý tưởng, dù phòng nghỉ khang trang hiện đại mà sao lòng chẳng thấy bình yên? Chỉ muốn nhẩn nha bách bộ mà suy ngẫm sự đời.
Trước khi đồng ý cho vợ đi trại viết Tam Đảo, ông chồng “kháu lão” của Ái Lâm đã giao kèo thật kỹ:
– Đến trại, em chỉ ngồi yên mà sáng tác, đến giờ thì đi ăn cơm. Đừng có mà chạy lồng lên chụp choẹt suốt ngày rồi đăng facebook, sống ảo nữa. Cứ tưởng mình còn trẻ trung lắm à? Mà phải biết thương đôi chân của mình chứ! Lần này mà ngã nữa là nguy hiểm lắm, chả ai hơi đâu mà chữa chạy cho nữa nhé!
Lão chồng già đẹp mẽ nói một thôi một hồi không cho vợ có thời gian “vâng dạ” lấy một lần. Trời ạ, nửa thế kỷ trước đây, khi tỏ tình với Ái Lâm, lão ít nói, hiền khô cơ mà. Giao Hương – cô con gái út thấy mẹ cúi xuống, chớp chớp mắt giấu đi hai giọt lệ trực lăn thì khẽ bấm vào cổ tay mẹ, nửa ngầm như cảm thông an ủi, nửa ngầm như kìm nén cơn bực bội sắp bùng phát lên từ mẹ.
Thói thường, càng có tuổi, người ta càng sống điềm đạm hơn, buông bỏ dần những ưu tư phiền muộn để cuộc sống mỗi ngày được thanh thản. Xa chồng, thoát khỏi cảm giác bức bối khó chịu hàng ngày khi bị lão chồng già luôn xét nét, quan tâm, coi vợ như một bé gái mới lớn, ngu ngơ khờ dại cần bảo ban, chấn chỉnh và bao bọc từng li từng tí. Ái Lâm chợt nhận ra, mình đối với bà con chòm xóm, với anh em ruột thịt, với con cháu… ngày càng bao dung, nhân từ bao nhiêu thì với lão chồng già càng cố chấp, bực bội bấy nhiêu.
“Đàn bà là cái giống thù dai”. Ái Lâm đã nghe ai nói câu nói đó từ thời còn thiếu nữ. Và nàng đã phản đối kịch liệt bởi nàng đinh ninh một điều: phụ nữ sinh ra chỉ để yêu thương mọi người và để được mọi người yêu thương thôi. Thế mà đến giờ, sau gần nửa thế kỷ chung sống, đối với cái người dưng mà nàng đã hết lòng yêu thương thuở mới lớn, nàng vẫn chăm chăm chờ cơ hội bùng lên để giải tỏa những ấm ức, những yêu thương không thỏa của một thời ấu trĩ. Biết là vô lý thật đấy nhưng cả đời này, cả kiếp này, nàng không thể tha thứ cho người vô tình đã để cho nàng sống trong những năm tháng tuổi trẻ ngập tràn nước mắt.
Chỉ mới tuần trước thôi, facebook nhắc lại tấm ảnh của Nhật Lệ – con trai cả nhà Ái Lâm, tự dưng nàng gắn ảnh lão chồng kháu khỉnh thời còn trẻ vào kèm theo status: “Cả nhà thấy cháu có giống lão già nhà tôi lúc còn trẻ không ạ?”. Đăng chơi chơi và bỏ đấy đi chợ. Nhoáng cái, chưa đầy một tiếng trở về, đã có hàng trăm lượt like và comment: “Bản sao đẹp trai”, “Như hai giọt nước”, “Y hệt luôn”, “Ôi con trai khôi ngô tuấn tú giống hệt bố”, “Rất giống bố”, “Sao y bản chính”, “Đẹp trai y như bố”…
Ái Lâm biết: Tất cả các lời khen ấy đều là sự thật. Người đàn bà nào chẳng cảm thấy vui sướng trước những lời khen chân tình như thế? Nhưng Ái Lâm bỗng gục xuống bàn khóc to thành tiếng như chưa bao giờ được khóc. Sắp đến cái tuổi “cổ lai hy”, nàng vẫn chưa biết cách kiềm chế cảm xúc của mình? Hay sự nín nhịn, ấm ức dồn nén suốt bao nhiêu năm khiến nàng trở thành người đàn bà thù dai, cố chấp?
Ông chồng “kháu lão” đi bách bộ về, thấy vợ chưa cắm cơm, nước mắt giàn giụa, bèn sốt sắng hỏi:
– Em ốm à? Sao không nằm trong nhà mà lại ra sân ngồi thế này? Thôi vào nhà nằm đi, để anh nấu cơm cho.
Đoạn, ông nhẹ nhàng xốc nách, dìu Ái Lâm vào nhà. Vừa lúc ấy, Giao Hương đi chợ ghé qua nhà thăm bố mẹ thấy vậy cuống quýt hỏi:
– Mẹ làm sao đấy? Sáng thấy còn khỏe lắm cơ mà?
– Mẹ không sao, chỉ hơi nhức đầu thôi! Con về nhà chăm sóc các cháu đi, mẹ nằm nghỉ chút là khỏe ngay thôi.
Ái Lâm quen chú Phùng Cù Lù năm 1972 khi nàng vừa rời chiếc khăn quàng đỏ và chạm vào ước mơ được trở thành cô giáo dạy văn. Hè năm đó, Ái Lâm xung phong ở lại trực trường cùng cô Quyên, lớp phó phụ trách đời sống và cô Thúy – Bí thư Chi đoàn. Hôm ấy, ba cô cháu rẫy cỏ, dọn trường. Đến trưa thì cô Quyên bảo:
– Sáng nay ta nghỉ sớm về nhà nấu cơm, chiều làm tiếp nhé!
Vừa về đến nhà đã thấy những mảnh khói bay lên từ mái bếp lợp gianh cũ kỹ.
– Ai lẻn vào bếp nhà mình đó cô Quyên? Lúc đi cô không khóa cửa bếp à?
Một tấm lưng chắc nịch xoay ra và một khuôn mặt sáng sủa nhưng đầy nếp nhăn cười thật hiền:
– Ôi, các chị và cháu về sớm thế! Em mới đặt nồi cơm và đang nhặt rau muống để luộc.
– Cháu cứ tưởng chú về rồi chứ! Sao chú không về nhà?
– Chú có nhà đâu mà về…
Giọng chú Phùng Cù Lù chùng xuống thật buồn.
Cô Quyên đỡ lời:
– Chú Lù ở lại trông nhà giúp thầy Hảo để vợ chồng thầy đưa con nhỏ về quê thăm ông bà ngoại. Cô bảo chú ăn cơm một mình cũng buồn, thôi cứ đến bữa thì ăn cùng cô cháu mình cho vui.
Ăn xong, khi chú Lù trở về trông nhà cho thầy Hảo, cô Thúy mới bùi ngùi kể cho cô Quyên nghe chuyện của chú Lù:
– Mọi khi em không ưa gì Cù Lù bởi thấy cậu ấy suốt ngày quanh quẩn ở nhà thầy Hảo, bế con, gánh nước, bổ củi, trồng rau, nuôi lợn… Thanh niên gì mà suốt ngày quanh quẩn ở nhà thầy. Chắc cậu ấy muốn lấy lòng thầy để thầy ưu tiên cho thêm điểm chứ gì? Lúc nãy hai chị em ngồi trong bếp, nghe Lù tâm sự, em mới biết mình đã nghĩ oan cho cậu ấy.
Câu chuyện của cô Thúy kể về cuộc đời của Lù khiến ai nấy đều xót xa. Cậu con trai mồ côi cả bố lẫn mẹ trong bản nghèo được người thợ mộc đưa ra xưởng nuôi và làm hồ sơ cho đi học ở trường nội trú. Từ bấy đến nay, mỗi kỳ nghỉ hè, nghỉ tết, nhìn thấy bạn bè rục rịch chuẩn bị về nhà, cậu lại tủi thân ra sân đứng một mình. Các thầy cô giáo, các bác cán bộ xót thương thường gọi cậu xuống nhà ăn cơm rồi giúp họ việc nhà…
Ái Lâm đang dùng búa đóng đinh lại chiếc guốc tuột quai, nghe cô Thúy kể chuyện chú Lù, đã không giấu nổi những giọt nước mắt lã chã.
Cô Quyên chép miệng:
– Khổ thân thằng bé quá! – Rồi nghe tiếng khóc nấc lên của Ái Lâm, cô hỏi:
– Ái Lâm khóc vì thương chú Lù à?
Ái Lâm ngượng chín mặt, vội lấy vạt áo lau nước mắt, chối đây đẩy:
– Không phải! Cháu đóng lại quai guốc, bị búa đập trúng tay đấy chứ! – Đoạn, cô đưa tay trái lên miệng thổi phù phù rồi xuýt xoa: “Đau quá! Đau quá!”.
3.
Một hôm, sắp ăn cơm chiều thì cô Quyên thông báo:
– Chúng ta đã ở lại trông trường được tròn một tháng rồi. Sáng mai chúng ta được về với gia đình để lớp khác thay ta trực trường.
Ái Lâm sung sướng quá, quên cả ý tứ, vỗ tay và reo lên:
– Thích quá! Được về với mẹ rồi!
Cô Thúy an ủi chú Lù:
– Mai mọi người về rồi, em ở lại ăn cơm một mình đừng buồn nhé! Chỉ một tháng nữa, chúng ta lại gặp nhau mà.
Lúc ấy, Lâm mới quay sang nhìn chú Lù thấy mặt chú buồn so, nom thật tội nghiệp.
Bước sang năm học thứ hai, chú Lù càng quý Ái Lâm hơn. Và họ chuyển sang gọi nhau bằng anh – em thay cho gọi nhau bằng chú – cháu tự lúc nào chẳng rõ.
Một tối, bọn con gái học sinh đang tụ tập luộc sắn ăn và tán gẫu thì cả bốn chú trai chưa vợ ở nhà nam sang chơi xin ăn sắn cùng. Các chú ngồi xen vào đám học sinh, rất tự nhiên làm như họ cùng một lứa với các cô thiếu nữ mới lớn này vậy. Câu chuyện đang rôm rả thì Cù Lù cười cười, nói to lên trước đông người:
– Ái Lâm ơi! Tao thích mày lắm đấy!
Cả bọn vỗ tay rầm rầm tán thưởng làm Lâm ngượng chín cả mặt. Cái anh này đùa thô và vô duyên quá! Nhớ lời mẹ hay nói “Làm hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta trêu”, Ái Lâm im lặng không tỏ thái độ gì nhưng cũng thấy lòng xao xuyến.
Bất ngờ, một sự cố đau lòng xảy ra: Bố Ái Lâm bị xuất huyết não, đột tử sau một đêm thức trắng viết diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ.
Bốn chín ngày của bố đúng vào dịp nghỉ hè, Ái Lâm trở về nhà nhìn mẹ mới bốn tư tuổi mà già như một bà lão, nhìn đứa em trai út mới lên hai tuổi ngơ ngác mà lòng quặn đau. Nàng tự hứa với lòng mình là sẽ quên đi mối tình đầu vừa chớm nở để chí thú học tập, ra trường san sẻ gánh nặng cho mẹ. Thực tế những ngày qua, Ái Lâm đã cố tránh gặp Cù Lù. Nàng vào ra bằng cái cửa khác cửa Cù Lù vào ra.
Buổi sáng ấy, mẹ vừa đi làm, đã nghe chú công an trực vọng gác của Khu ủy đến tận sân gọi Ái Lâm:
– Cháu ra cổng có khách cần gặp.
Vừa ra đến vọng gác, Ái Lâm sững người khi nhận ra đó là anh Cù Lù.
– Anh xuống đây làm gì?
Ái Lâm cố tình hỏi, giọng lạnh tanh.
– Thì anh xuống chia buồn với gia đình em thôi!
“Có nên cho anh ta vào nhà không? Mẹ về thấy anh ta ở trong nhà sẽ rất buồn và cáu. Còn anh ta mất công đi từ trường xuống đây viếng bố mà không cho vào nhà thì thật là phũ phàng”. Cắn môi suy nghĩ một phút, Ái Lâm không nỡ để cho người con trai bất hạnh này bị tổn thương, dù có bị mẹ mắng, mình cũng cam lòng vậy. Nàng quả quyết nói với chú công an gác cổng:
– Đây là anh bạn học cùng lớp với cháu. Cháu xin phép cho anh vào nhà.
Anh Lù kể anh xuống thị xã từ tối qua, ngủ nhờ nhà bố của thầy Hảo để sớm nay xuống xin được thắp hương cho bố và chia buồn với gia đình.
Đoạn, anh lấy ra ba gói kẹo chanh của Trung Quốc đủ các màu xanh, đỏ, tím, vàng và ba chiếc khăn mùi xoa cho ba đứa em nhà Ái Lâm. Nàng chưa kịp bóc kẹo cho các em ăn thì mẹ bất ngờ trở về. Anh Cù Lù đứng dậy chào lí nhí:
– Cháu chào bác ạ!
– Vâng! Tôi không dám! – Mẹ đáp giọng lạnh nhạt, mắt liếc nhìn ba gói kẹo chanh và ba cái khăn mùi soa trên giường.
– Anh đem kẹo và khăn mùi xoa của anh về đi, nhà tôi đang có tang gia…
Không muốn ai đến làm phiền đâu.
Như bị dội một gáo nước lạnh lên đầu, Cù Lù đứng dậy đáp:
– Vâng, cháu chào bác cháu về.
Cù Lù vừa ra đến cổng thì mẹ trút lên đầu Ái Lâm cơn giận dữ lôi đình:
– Bố vừa mới mất chưa kịp xanh cỏ, con gái mới nứt mắt ra đã rước trai về nhà. Này thì kẹo này! Này thì khăn mùi xoa này!
– Mỗi tiếng “này thì” mẹ cất lên lại kèm theo một gói kẹo hoặc một chiếc khăn múi xoa mẹ lẳng ra sân không thương tiếc.
Thằng em út hai tuổi nhìn theo những gói kẹo chanh mẹ lẳng ra sân với đôi mắt thèm thuồng không giấu nổi.
Về đến Lai Châu, anh Cù Lù viết cho mẹ một lá thư thật dài, không biết anh kể lể với mẹ những gì mà mẹ đi làm về, nước mắt ầng ậc:
– Khổ thân thằng Cù Lù quá! Nó đến nhà bất ngờ giữa lúc nhà đang có chuyện buồn, mẹ nóng tính nên cư xử vô lý với nó. Chắc nó tủi thân lắm!
Ái Lâm thành thực nói với mẹ:
– Chúng con mới bắt đầu thân với nhau thì bố mất, con đã lảng tránh anh ấy và chỉ mong sớm ra trường đỡ đần mẹ thôi! Hôm ấy anh ấy đến bất ngờ, con không nỡ bảo chú công an đừng cho anh ấy qua vọng gác vào nhà mình.
Đến cuối năm học thứ ba thì mẹ đã hiểu và thông cảm hơn với Cù Lù, thậm chí còn muốn xin cho anh công tác ở Khu để gần gũi với Lâm nhưng do tỉnh Lai Châu giữ cán bộ dân tộc thiểu số nên khi ra trường, mỗi người vẫn được phân công làm ở một tỉnh khác nhau.
Đùng một cái, có quyết định giải thể Khu, trường Đảng Khu chuyển về Hà Nội, trở thành phân hiệu 6 của trường Đảng Nguyễn Ái Quốc. Cả trường phấn khởi lắm. Mẹ ngậm ngùi nói:
– Thôi, con đừng theo trường chuyển về Hà Nội nữa, con ở lại trước hết để cho mẹ và các em vui, sau đó là để kết duyên với Cù Lù, mẹ nghĩ kỹ rồi, con không thể tìm được ai tốt hơn Cù Lù đâu. Thứ ba nữa cũng vì cô giáo Tuyết dạy con hiện dạy ở trường cấp hai Tô Hiệu, còn chồng cô lại dạy triết ở trường Đảng, nếu chú chuyển về Hà Nội mà cô ở lại Sơn La một nách hai con thì cũng khổ, thôi con đổi cho cô con ra dạy ở Tô Hiệu để cô thay con chuyển theo chồng về Hà Nội.
Ái Lâm thấy mẹ nói gì cũng hợp tình hợp lý nên nhất nhất vâng theo lời mẹ dạy.
Cù Lù về thăm gia đình Ái Lâm vào đúng ngày hai mươi tám tết. Lúc Ái Lâm đi chợ về thì anh ta đã nằm co quắp trên giường như một cái bào thai nằm trong bụng mẹ. Mẹ ra hiệu cho Ái Lâm trật tự để cho anh ấy ngủ rồi kéo Lâm xuống bếp, chép miệng:
– Rõ khổ, mãi đến ngày hai mươi sáu Tết, nó mới theo xe ca đưa đón học sinh về Sìn Hồ rồi xin nhà trường cho nghỉ phép về Sơn La ăn tết với gia đình mình đấy! Nhà trường chỉ cho nghỉ đến ngày mùng bốn tết thôi. Nó đi xe ca từ Điện Biên đến Tuần Giáo thì không còn xe khách từ Tuần Giáo về Thuận Châu nữa, thế là nó đành cõng chiếc ba lô đựng đầy cam Mường Pồn cuốc bộ 52 cây số về Thuận Châu. Đến đỉnh đèo Pha Đin, thấy người dân đang mổ một con nghé bị ngã xuống vực chết, nó dừng lại mua thêm năm cân thịt nghé khoác đè lên ba lô rồi lóc cóc một mình vượt qua đèo Pha Đin sang Thuận Châu. May mà về đến Thuận Châu lại mua kịp vé về Sơn La. Về đến nhà, nó chỉ kịp chào mẹ và kêu lên: “Mẹ ơi, con đói quá!”. Mẹ lấy cho nó ăn bát cơm nguội trộn muối vừng. Nó và lấy và để rồi lăn quay ra ngủ, ngáy ầm ầm.
Mẹ lén lấy vạt áo lau nước mắt:
– Rõ khổ thân thằng bé. Mà ông hiệu trưởng gửi thư cho mẹ xin cho hai đứa cưới nhau dịp tết này đấy! Vì nó mồ côi cha mẹ, lẽ ra ông hiệu trưởng phải thay mặt nhà trai về gia đình mình xin cưới hỏi cho phải phép nhưng vì công việc nhà trường lu bu quá, ông xin gia đình thông cảm, tạo điều kiện tốt nhất cho em Lù.
– Mẹ ơi! Nhưng bố con mất chưa được hai năm, con mới mười chín tuổi chưa cần cưới vội đâu.
– Thương bố thì con để trong lòng. Mẹ cho chúng mày lấy nhau là vì nó và cũng là vì con. Trên đời này chẳng còn ai tốt với con hơn nó đâu, con ạ!
5.
Mãi đến chiều hai chín tết, hai đứa mới ra phòng công an thị xã làm thủ tục xin giấy kết hôn. Sáng chủ nhật, Ái Lâm xin phép mẹ lên Thuận Châu mời thầy cô, anh em bè bạn về Sơn La dự cưới. Nhiều thầy biết hoàn cảnh anh Lù, còn cắt phiếu mua thuốc lá tặng anh để tiếp khách.
Hai đứa vừa về đến nhà thì anh Hòa – bạn thân của anh trai cũng đã xuống trước, đem cho hai con ngan để tiếp khách. Mẹ bảo:
– Đám cưới theo đời sống mới nên chủ yếu là dùng tiệc ngọt và tiếp khách cả ngày. Mẹ đã xin mua được hai tút thuốc lá Tam Đảo, một cân lạc rang. Còn mẹ sẽ tự tay làm bánh để tiếp khách. Tiệc mặn mình chỉ làm đúng hai mâm, mời những người thân thiết nhất của bố mẹ thôi. Có hai con ngan to của anh Hòa và năm cân thịt nghé Lù mang về là quá ổn rồi! Còn su su, rau bí nhà mình nhiều vô kể.
Tối hôm đó, cả nhà quây quần nấu bánh chưng. Nhà chỉ có hai cái giường, anh Hòa với anh Lù ngủ giường ngoài phòng khách, bốn chị em nhà Ái Lâm ngủ trong buồng với mẹ.
Sáng mùng một, đợi anh Hòa đi chơi nhà bạn, mẹ gọi hai đứa xuống bếp nói chuyện. Mẹ bảo:
– Vợ chồng là cái duyên cái số, là chung xương sẻ thịt với nhau, các con phải thương yêu, tôn trọng nhau suốt đời nhé!
Ái Lâm rùng mình xấu hổ khi nghe mẹ dùng từ “chung lưng sẻ thịt”. Nàng chưa từng nghe thấy ai nói câu ấy bao giờ.
Ăn cơm chiều xong, mẹ nói với anh Hòa:
– Lù chỉ được nghỉ đến ngày mùng bốn tết là phải có mặt ở trường rồi. Hai em cũng đã đăng ký kết hôn từ ngày hai chín Tết. Tối nay cháu ra nhà người quen để vợ chồng nó ngủ ở phòng khách nhé!
Anh Hòa vui vẻ đáp: “Vâng ạ!”. Anh Hòa là bạn thân của anh trai từ năm Ái Lâm lên mười tuổi nên nàng coi anh cũng như anh trai ruột của mình vậy nhưng nghe mẹ nói thế Ái Lâm ngượng chín cả mặt. Yêu nhau gần hai năm, hai đứa mới chỉ dám cầm tay nhau thôi! Cù Lù thì mừng vui ra mặt. Từ tối qua, anh đã tỏ thái độ không vui khi thấy anh Hòa vào phòng khách ngủ chung giường với anh ấy.
Tối mùng một tết, mẹ đuổi Ái Lâm ra phòng khách ngủ với Cù Lù nhưng nàng nhất quyết không ra. Thực ra nàng vẫn còn giận anh vì hơn một tháng nay không nhận được thư của anh ấy, có lúc nàng đã nghĩ: ở xa thế, thôi quách đi cho rồi. Anh ta hai mươi sáu tuổi mới lo lấy vợ muộn chứ mình mới mười chín tuổi, lo gì ế! Suốt năm học thứ nhất, mình chả gọi anh ta là chú xưng là cháu sao?
– Đừng có mà trẻ con – Mẹ mắng. Mày không thể nào lấy ai tốt hơn nó được đâu!
– Còn chưa cưới, con chưa ở chung với anh ấy được đâu.
– Có giấy chứng nhận kết hôn là vợ chồng hợp pháp của nhau rồi, đừng có mà ngang như cua. Mẹ quầy quậy đuổi Ái Lâm ra ngoài, cài then buồng lại.
Ái Lâm ra cời bếp, chất lửa và đem quyển truyện ra đọc, thỉnh thoảng nghe tiếng thở dài thườn thượt của Cù Lù ở ngoài phòng khách. Nhưng nhất quyết nàng không ra, ngồi trên ghế mây chán, nàng đem chiếc ghế bố ra nằm, ngủ say một mạch tới lúc nghe tiếng mẹ la lên:
– Sao lại ngủ ở đây hở con dở hơi?
Cù Lù đã ăn vận chỉnh tề, gấp chăn màn gọn gàng và chạy ra chào mẹ:
– Mẹ dậy sớm thế ạ?
– Con ngủ có ngon không?
– Dạ, có ạ!
Cù Lù đáp leo lẻo:
– Hừ, thế mà cũng biết nói dối nhỉ? Thở dài thườn thượt suốt đêm, tưởng tôi không nghe thấy sao?
Đúng lúc ấy, anh Hòa bước vào nhà:
– Cháu về sớm xem có việc gì cần thì làm.
Cù Lù bảo:
– Anh giúp em treo đôi chim bồ câu này lên tường nhé!
– Được rồi, yên tâm đi!
Ái Lâm ngạc nhiên thấy Cù Lù mở cuộn giấy cuộn tròn ra đôi chim bồ câu và hai chữ song hỷ nhờ ai cắt từ ở trường.
Mẹ hỏi:
– Anh Hòa và anh Lù, ai biết cắt tiết ngan không?
Anh Hòa lắc đầu:
– Cháu chịu!
Còn Cù Lù cười tủm tỉm khoe:
– Cháu cắt tiết canh gà, ngan, vịt thì lấy dây lạt buộc đem đi được đấy!
– Thế Ái Lâm ra giữ chân ngan cho anh Lù cắt tiết canh nhé!
– Vâng ạ!
Ái Lâm ra cầm chân ngan nhưng hai mắt nhắm nghiền vì sợ. Bỗng con ngan quẫy chân đạp mạnh làm cái bát nghiêng đổ mất hơn một nửa, Lù mím môi mím lợi, bật dậy đá chiếc bát tiết canh lăn lông lốc xuống dốc.
Ái Lâm xây xẩm hết mặt mày, chạy vào buồng khóc rưng rức.
Anh Hòa chạy ra, hỏi:
– Sao đấy?
Mẹ cũng từ trong bếp chạy ra, hỏi dồn dập:
– Sao? Sao?
Và chạy vào trong buồng:
– Cái gì đấy?
– Con không lấy nó nữa. Hủy hôn đi!
– Mày muốn bôi tro trát trấu vào mặt mẹ mày à? Mẹ còng cọc một mình đi mời cưới suốt mấy hôm nay mày giở chứng hủy hôn. Tao biết ngẩng mặt lên nhìn ai bây giờ?
Ái Lâm ấm ức nói:
– Anh ấy đá bát tiết canh trước mặt con trong ngày cưới, con làm sao chịu đựng được về lâu về dài.
Ấy thế mà với tính cách cả nể, sĩ diện của Ái Lâm và cả lòng thương cho tình cảnh của Cù Lù mà Ái Lâm nín nhịn. Trong lòng nàng vẫn vừa bất bình, vừa bất ngờ và cả hụt hẫng, nghĩ khoảng thời gian trước đây mình đã bị lừa, bị che giấu bởi vẻ ngoài thật thà của con người giản dị đó.
Sau đám cưới chỉ một ngày Cù Lù đã phải lên đường về trường để tiếp tục công việc. Trước khi đi, Ái Lâm thấy anh ta thanh minh với mẹ rằng do hồi nhỏ con bị ngã xe đạp phải bôi mật gấu cho lành sẹo. Từ đó có tính nóng nảy không kiềm chế trước những sự việc bất ngờ xảy ra đã làm cho Ái Lâm buồn. Mẹ giúp con xoa dịu cô ấy…
Vốn tính thương người, Ái Lâm đứng ở góc khuất đã rơm rớm nước mắt. Quãng thời gian sau này, khi phát hiện đã mang thai, nghĩ về chồng và khoảng thời gian ngắn ngủi ở gần nhau, Ái Lâm vẫn hay sụt sịt và thầm khóc. Một phần do tính cách yếu đuối, một phần do chồng không ở bên nên Ái Lâm hay nghĩ ngợi linh tinh. Mẹ Ái Lâm vốn là người bận rộn công việc nên cũng không thấu hiểu được lòng con để gần gũi, sẻ chia. Ái Lâm gần như đã bị trầm cảm đến nỗi nàng viết trong nhật ký sẽ đặt tên con là Nhật Lệ, không phải là dòng sông thơ mộng mà là dòng sông của nước mắt, hờn trách, tủi thân vì số phận đã sắp đặt cho mình có một người chồng không biết thấu hiểu.
Suốt quãng thời gian sau này, mặc dù hai vợ chồng đã chuyển về cạnh nhau, có thêm một bé gái nhưng nỗi ấm ức ngày nào chưa từng vơi cạn trong lòng Ái Lâm. Mỗi khi thấy Cù Lù chăm sóc Nhật Lệ và đưa cậu bé đi chơi, tập đá bóng. Đến bữa ăn, thấy chồng âu yếm bón cho con, miếng cơm đã đến họng Ái Lâm vẫn như trực trào ra ngoài.
Năm mươi năm đã trôi qua. Nhật Lệ trở thành người đàn ông thành đạt, chững chạc đủ để che gió chắn mưa cho cả gia đình. Cù Lù thường dí dỏm trêu Ái Lâm: Con trai chúng mình cũng được đấy nhỉ? Thì Ái Lâm sẽ nói ngay sang một câu chuyện khác còn trong lòng lại nổi sóng không nguôi. Con gái thì hay trêu con trai riêng của mẹ có khác nên toàn chiều ông anh. Cứ anh về lại nấu riêng những món khoái khẩu. Nó đâu hiểu với Ái Lâm mỗi khi nhìn Nhật Lệ, lòng nàng lại dâng lên niềm cảm thương vô hạn. Nghĩ rằng từ khi tấm bé con phải xa bố, bố lại không tâm lý. Mặc dù chính nàng cũng hiểu đó chỉ là sự vô tâm, ấu trĩ thời tuổi trẻ của chồng nhưng nỗi niềm này nào dễ nguôi ngoai…
BÙI THỊ SƠN
>> Xem thêm: Tạp chí Văn nghệ Lai Châu