Người La Hủ cũng như nhiều tộc người khác ở miền núi phía Bắc nước ta có tục kiêng kỵ những ngày xấu khá chặt chẽ. Cách tính này của họ có những điểm chung với các tộc người trong vùng là kiêng những ngày xấu là những ngày mất của cha, mẹ của gia chủ. Nhiều người còn cho rằng tất cả những ngày mất của tất cả các thành viên trong gia đình mà họ nhớ được đều là ngày xấu. Nếu thực hiện những đại sự bao gồm cả việc tra hạt trên nương và thu hoạch lúa họ còn kiêng cả những ngày trùng với ngày sinh của các thành viên còn sống trong gia đình, nhất là ngày sinh của gia chủ. Cách tính những ngày xấu theo lịch hệ chi của họ có những nét tương đồng với người Hà Nhì, người Cống và người Si La trong vùng. Theo đó thì ngày kiêng trước hết là ngày dần (La nhi). Theo quan niệm của họ thì ngày này tuy không phải là ngày xấu nhưng vẫn phải kiêng vì đó là ngày khởi đầu của tuần, của tháng, của năm nên là ngày của thần linh, ma quỉ và các thế lực siêu nhiên. Vì thế họ không chỉ kiêng xuất hành hay làm những việc đại sự mà còn kiêng không làm bất cứ việc gì ngoài nhà (được làm những việc trong nhà như bếp núc, giặt giũ, rửa ráy, quét tước…). Họ cho rằng, nếu trong ngày dần mà xuất hành hay làm những việc ngoài nhà là không tôn trọng thần linh và có thể sẽ bị các thế lực siêu nhiên làm hại.Ngoài ra, ngày xấu còn bao gồm ngày con khỉ (mộ nhi). Theo giải thích dân gian thì loài khỉ là loài hay phá hoại cây trồng, hoa màu trên nương. Mỗi lần khỉ đàn kéo về đám nương nào thì năm đó mảnh nương ấy thất thu nặng. Vì thế mà ngày khỉ được xem là ngày xấu.
Thời gian trong một ngày cũng được người La Hủ chia thành mười hai canh giờ. Mỗi canh giờ ứng với một chi giống lịch pháp Trung Hoa. Nhưng khác ở chỗ giờ đầu tiên trong ngày được tính bắt đầu từ giờ Dần (ba giờ sáng) và kết thúc vào giờ Sửu (hai giờ sáng hôm sau). Và cách tính giờ tốt xấu trong ngày của họ là một tập quán khá điển hình trong việc chọn giờ tốt xấu của các cư dân nhóm Tạng – Miến. Tuy nhiên, cách tính này của người La Hủ, người Hà Nhì, người Cống, người Si La ở Mường Tè cũng có những nét riêng.
Người La Hủ tính toán giờ tốt xấu dựa trên một bảng tính gọi là Soóng khừ. Đó là một bảng tính có bố cục cân đối năm ô dọc và năm ô ngang. Mỗi ô dọc ứng với một múi giờ làm việc trong một ngày, hướng xem từ dưới lên trên. Mỗi ô ngang lại ứng với một ngày bắt đầu từ ngày mùng một tháng giêng của năm và quay vòng tuần tự theo chu kỳ năm ngày, ngày thứ sáu, ngày thứ mười một… quay lại trùng với ngày thứ nhất. Hướng xem hàng ngang tuần tự từ trái qua phải.
Trong bảng tính có năm ký hiệu là hình bốn chấm, tiếng La Hủ gọi là Sứ dè, có nghĩa là Bốn chân. Hình dấu nhân gọi là Pẹ tá, có nghĩa là Đòn gánh. Hình dấu tròn gọi là Á nhẹ có nghĩa là Không. Hình hai chấm, gọi là Lấu dè, có nghĩa là Hai chân. Hình một chấm gọi là Tùng dè, có nghĩa là Một chân. Mỗi ký hiệu đều ngầm chứa một thông điệp lành hay dữ với mỗi việc hệ trọng. Cụ thể như sau:
– Hình bốn chấm rất tốt cho việc đi xa, nhất là đi buôn bán. Vì vậy, những người buôn bán thường chọn giờ có hình này để xuất hành.
– Hình dấu nhân tượng trưng cho gánh thịt. Rất xấu cho việc đi buôn bán hoặc đi xa nhưng tốt cho việc đi săn.
– Hình dấu tròn, ý nghĩa đầy đủ là không có gì tốt nhưng cũng không có gì xấu nên những ai có việc hệ trọng liên quan đến tính mạng, thành bại thì không chọn xuất hành vào múi giờ ứng với ký hiệu này. Nhưng những ai đi chơi hoặc đi việc không quan trọng thì có thể xuất hành vào giờ đó cũng được.
– Hình hai chấm tốt cho việc đi xa, nhất là đi buôn bán. Những người có việc như trên nếu không chọn được giờ trùng với ký hiệu bốn chấm thì sẽ chọn giờ trùng với ký hiệu này.
– Hình một chấm là dấu hiệu không tốt vì nó tượng trưng cho sự đơn lẻ, không có đôi. Những ai đi xa, đi buôn bán hay đi săn bắt không chọn giờ ứng với ký hiệu này để xuất hành.
15-16 |
X | O | . . | . | . .
. . |
13-14 | O | . . | . | . .
. . |
X |
11-12 | . . | . | . .
. . |
X | O |
9-10 | . | . .
. . |
X | O | . . |
6-8 | . .
. . |
X | O | . . | . |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 |
Mỗi ký hiệu trong bảng tính đều được bố trí hoán đổi tuần tự theo từng ngày, từng giờ. Khi xem, người ta ghép hàng ngang ứng vào ngày muốn chọn với hàng dọc để xem trong ngày đó giờ nào tốt, giờ nào xấu để quyết định giờ xuất hành.
Theo tập quán, người La Hủ chỉ tính giờ tốt xấu để xuất hành thực hiện những việc liên quan đến tính mạng như đi xa, đi săn; những việc liên quan đến thành bại như đi buôn bán, gieo hạt, làm nhà mới. Theo tập quán sinh hoạt và lao động cổ truyền, những việc ấy bao giờ cũng được bắt đầu từ sáu giờ sáng cho đến bốn giờ chiều.
Việc xem Soóng khừ chọn ngày xuất hành thường do những người đàn ông chủ gia đình đảm nhiệm. Trước đây, những người đàn ông thường khắc bảng tính Soóng khừ trên bao dao của mình để tiện việc theo dõi, chọn giờ. Ngày nay, tục lệ này ở người La Hủ đã mai một, không còn mấy người biết xem nữa.