Sự vận động và phát triển của văn học hiện đại Lai Châu – Cao Thị Hảo

 Tỉnh Lai Châu được thành lập năm 2004, cùng với sự hình thành của tỉnh, văn học viết Lai Châu cũng dần hình thành và phát triển. Nói đến quá trình hình thành và phát triển của văn học viết Lai Châu chính là nói đến sự xuất hiện và phát triển của văn học hiện đại Lai Châu, được tính từ khi thành lập tỉnh đến nay với sự xuất hiện của các tác giả chủ yếu là hội viên của Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lai Châu. Quá trình hình thành và phát triển của văn học viết Lai Châu được thể hiện ở sự hình thành và phát triển của đội ngũ tác giả và các thể loại văn học như: thơ, truyện ngắn, tản văn, tiểu thuyết, sưu tầm và lý luận phê bình.

Trước năm 2004, văn học viết Lai Châu chưa tách riêng, vẫn nằm trong văn học tỉnh Điện Biên. Ở thời kỳ này, trong đời sống văn học, một số tác giả viết về miền núi Tây Bắc nói chung, trong đó có vùng đất Lai Châu. Chúng ta có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu như: Mạc Phi, Lương Quy Nhân, Mùa A Sấu, Đỗ Thị Tấc,… ở chặng đường đầu của văn học Lai Châu. Từ những năm 90, nhà thơ Đỗ Thị Tấc đã đạt giải thưởng trong cuộc thi thơ của báo Văn nghệ. Bà được coi là trụ cột của văn học viết Lai Châu với những đóng góp ở nhiều thể loại (thơ, truyện, sưu tầm nghiên cứu văn nghệ dân gian).

 Đầu thế kỉ XXI, nhất là từ sau khi thành lập Hội Văn học Nghệ thuật Lai Châu, văn học Lai Châu mới quy tụ một đội ngũ sáng tác đông đảo với nhiều thể loại.

Thơ và truyện ngắn là những thể loại được hình thành từ sớm với đội ngũ tác giả đầu tiên của văn học viết Lai Châu là: Đỗ Thị Tấc, Huỳnh Nguyên, Thanh Luận, Mạc Đích, Đào Chính, Hà Phong. Thơ Đỗ Thị Tấc đã sớm có một giọng điệu riêng với những vần thơ chắt chiu từ “sữa đá”, từ những thăng trầm cuộc đời và gập ghềnh đất núi, có chênh chao những vẫn thiết tha một tình yêu sâu nặng với đất núi và con người nơi đây: “Mùa gặt/ Cõng hạt sống trên lưng/ Địu con thơ trước ngực/ Đầu mẹ đội nắng, mưa, sấm, chớp/ Qua ba cánh rừng/ Về bản cùng trăng” (Những người mẹ núi)… Hà Phong được coi là tác giả có nhiều truyện ngắn về miền đất và con người Phong Thổ, Lai Châu. 

Tiếp đó là đội ngũ tác giả trẻ kế cận như: Thanh Phương, Trịnh Hồng Hải, Châm Võ, Thanh Tám, Thùy Tiên… ở mảng truyện. Các tác giả thơ là: Bùi Từ Thiện, Phùng Cù Sân, Bùi Thị Sơn, Lê Thị Hải Yến. Trong đó, xuất hiện các nhà thơ trẻ có nhiều đóng góp mới như: Phùng Hải Yến, Phạm Đào, Đinh Hồng Nhung, Chiến Hữu, Trương Huy… Họ đã tiếp bước và kế cận lớp nhà văn đầu tiên của Lai Châu để tiếp tục mạch sáng tác của văn học viết Lai Châu.

Thể loại tiểu thuyết được biết đến với đóng góp của hai tác giả tiêu biểu: Huỳnh Nguyên và Hà Phong. Tiểu thuyết của Huỳnh Nguyên trải dài theo bước phát triển của văn học Lai Châu với 4 tập tiểu thuyết: Tình sử một vùng đất (2001), Lửa Pu Ta Leng (2012), Đại bàng núi (2015), Núi rừng thân yêu (2019). Các tiểu thuyết của ông chủ yếu viết về những năm tháng kháng chiến, dựng xây vùng biên giới của tổ quốc – mảnh đất Lai Châu. Tiểu thuyết của Hà Phong thể hiện tình yêu sâu nặng với vùng đất Hoàng Liên nơi có nhiều thắng cảnh đẹp nhưng cũng nhiều dấu ấn lịch sử đặc biệt (Vượt qua dãy Hoàng Liên, 2009).

          Các tác giả viết tản văn, ký và lý luận phê bình cũng thể hiện vốn sống với mảnh đất quê hương. Qua những tác phẩm của: Đỗ Tấc, Hà Phong, Hà Minh Hưng, Phùng Hải Yến, Đinh Hồng Nhung, Trương Huy, Hồng Nguyễn, Thanh Tám… đời sống văn học của Lai Châu đã được thể hiện phong phú, sinh động. Đó là những bức tranh chân thực về người và việc của những người lính nơi đồn biên phòng, các thầy cô cắm bản, về những người con ưu tú của bản làng xa xôi ở Lai Châu.

          Đội ngũ tác giả đóng góp vào các công trình sưu tầm, bảo tồn văn hoá văn học dân gian có thể kể đến: Vương Thị Mín, Lò Văn Sơi, Điêu Văn Thuyển, Lò Văn Chiến, Đỗ Thị Tấc, Hù Cố Xuân, Tẩn Kim Phu, Hà Mạnh Phong, Vàng Thị Ngoạn,… Họ đã đóng góp cho đời sống văn học của Lai Châu với các công trình nghiên cứu, sưu tầm văn hoá dân gian có giá trị, tiêu biểu như: Truyện thơ Thái, Dân ca Thái Lai Châu, Then Thái, Vè và câu đố dân tộc Thái, Văn hóa dân gian dân tộc La Hủ, Lời ca Then Giáy, Lời ca trong Then người Thái Trắng Lai Châu, Dân ca Si La, Dân ca kháng chiến của người Thái Mường So… Một số công trình đã đạt được giải thưởng như: Kin Pang Then của người Thái trắng ở Lai Châu; Lời tiễn hồn người chết lên trời của Đỗ Thị Tấc.

Văn học Lai Châu chủ yếu phản ánh thiên nhiên tươi đẹp và thế giới tâm hồn, cuộc sống mưu sinh của cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Lai Châu. 

Quê hương Lai Châu hiện lên trong văn xuôi của Hà Phong đẹp bình dị, trong trẻo nhưng cũng không ít vất vả, gian truân. Đó là vùng Phong Thổ anh dũng, kiên cường vượt qua những năm tháng kháng chiến gian khổ (Vượt qua dãy Hoàng Liên). Những tên đất, tên bản yêu thương: Huổi Thẳm (Ám ảnh đất), bản Tẹo (Gió lay hoa mận), bản Đán Đăm (Núi đợi), bản Phiêng Đao (Giấc mơ trên bãi ngàn sao)… mang đến cho bạn đọc một “vùng nhớ” đáng trân trọng. Thiên nhiên với “Chiêng xoong mố bók – tháng hai mùa hoa”,  “những dãy núi, cánh rừng quanh thung lũng lốm đốm sắc mầu” của đủ các lại hoa rừng: “Hoa đào rừng đỏ hồng. Hoa đào phai hồng nhạt. Hoa nhãn rừng vàng nâu. Hoa ban trắng muốt. Hoa mạ vàng đậm. Hoa vông, hoa gạo đỏ tươi” (Tháng Hai mùa hoa – Đỗ Thị Tấc).

Trong sáng tác của các nhà văn Lai Châu, những lễ hội, phong tục, tập quán, kiến trúc nhà sàn, trang phục truyền thống, ngôn ngữ độc đáo của các dân tộc thiểu số được thể hiện sinh động (Mật rừng, Khói sương mù xám, Đỉnh non mây ủ – Hà Phong). Những dấu ấn văn hóa, phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số được thể hiện qua nếp sống, những sinh hoạt hàng ngày hoặc là những món ăn đậm vị núi rừng như: canh cà đắng, măng đắng ăn ghém với lá phắc mạ; rau sắn trộn quả cà dại; Ốc thu suối mường xào; hoa bí xào tỏi; xôi đồ lá nếp… Và rất nhiều món ăn của người dân tộc Thái được chế biến từ rêu như: cạy pho, cạy pho mỏ, cạy pỉnh, cạy lam, keng chảo chạy,… rất độc đáo mà chỉ có ở vùng Mường So.

Con người hiện lên thấm đẫm giá trị nhân văn, yêu thương, trọng tình cảm. Đó là những câu chuyện giản dị, đơn sơ của cuộc sống đời thường nhưng thấm đẫm tình người. Tình vợ chồng ân nghĩa đến mức tri kỷ (Lữ khách – Đỗ Thị Tấc); tình hàng xóm sẻ chia ấm áp, nương tựa như tình cảm của vợ chồng chị Côi dành cho bà Lãng (Hời ru trong mưa – Hà Phong); vợ chồng Lản, Thín dành cho ông Tem, bà Bân “như cây quế thơm giữa rừng” (Mưa xuân bay bay – Hà Phong); Hình ảnh người lính biên phòng cũng là một điểm sáng trong xây dựng nhân vật của các nhà văn Lai Châu (Đồng đội – Phùng Hải Yến; Tình yêu biên giới – Huỳnh Nguyên).

Đặc biệt, hình ảnh người phụ nữ miền núi là tâm điểm xuất hiện trong nhiều sáng tác của các tác giả Lai Châu. Họ vất vả, cả một đời hi sinh, người phụ nữ Mông lấy chồng từ khi mười hai, mười ba tuổi, làm lụng vất vả từ sáng đến tối, quần quật như trâu, ngựa nhưng cũng chỉ là cái bóng của chồng. Đó là những người mẹ núi, hi sinh tất cả để “gieo mầm hạt Sống”, chẳng “xin gì cho riêng mình”. Những người phụ nữ ngồi thêu váy bên hiên nhà như mang cả mùa xuân đến (Mùa thêu váy). Họ cũng có những nỗi niềm có khi được giấu kín trong cái nhìn xa xăm mà đầy khát vọng: Thím tôi/ Sinh ra từ núi Đá Ô/ Ánh mắt – hồn núi/ Cái nhìn vượt dãy Phan Xi Păng/ vút đến mặt trời/ Nói, lời buông mũi tên… (Mắt núi – Phùng Hải Yến).

Về nghệ thuật, hầu hết các tác giả Lai Châu đều thể hiện được màu sắc riêng của con người và vùng đất. Trong hầu hết các tác phẩm văn xuôi và thơ, ngôn ngữ địa phương được sử dụng nhiều, đặc biệt là ngôn ngữ của một số dân tộc thiểu số trên địa bàn. Từ ngữ chỉ địa danh cũng được sử dụng khá nhiều để thể hiện bản sắc riêng của vùng đất. Trong sáng tác của các tác giả, vốn văn hoá dân gian với các cốt truyện cổ, các câu tục ngữ, dân ca của các dân tộc thiểu số ở Lai Châu cũng được sử dụng nhiều. Không ít cốt truyện được khai thác từ kho truyện thơ của các dân tộc thiểu số.

Thể thơ tự do được sử dụng nhiều nhằm diễn tả những sắc màu của cuộc sống và tâm trạng nhiều cảm xúc của nhân vật trữ tình: Lời hát then vẫn cứ vang lên/ Kể về ngày cưới, ngày hội, nỗi niềm nhân thế/ Then không chỉ tiễn hồn, then còn là lời kể/ Để bà tôi nhớ lại tuổi đôi mươi – (Trên cánh đồng – Phùng Hải Yến)

Thể tản văn được viết với chất giọng nhẹ nhàng, đậm chất thơ (Tháng sáu mùa mưa, Mùa xuân mở cửa sổ hoa và bướm, Lốc cốc vó ngựa xanh… của Hà Phong).

Văn học viết Lai Châu mặc dù hình thành muộn, phát triển chủ yếu trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI đến nay nhưng đã tạo nên một diện mạo riêng. Hầu hết các thể loại chính như thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, ký, lí luận phê bình đã dần hình thành và có một đội ngũ sáng tác khá đông đảo. Điều này cho thấy các văn nghệ sĩ Lai Châu đã rất nỗ lực và có nhiều cố gắng đóng góp cho đời sống văn học tỉnh nhà trong giai đoạn hiện nay.

Cao Thị Hảo

Xem thêm: Tạp chí Văn nghệ Lai Châu

Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi trong hành trình trưởng thành của học sinh THPT – Đinh Hồng Nhung

Ám ảnh bởi thời gian trong thơ Phùng Hải Yến – Thèn Hương

 


Bài viết liên quan


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.