Giàng Dinh! Cái tên gọi quen thuộc như đường lên nương, như lối ra mó nước, thật như bông lúa bắp ngô. Từ khi Giàng Dinh lọt lòng mẹ đặt tên là như thế. Trải qua năm tháng, qua mùa nương này đến vụ rẫy khác. Giàng Dinh lớn lên như cái cây đầu bản, biết cầm dao chặt củi, cầm cày. Cày nương rồi đi công tác hàng chục năm mới được gọi là đồng chí Giàng Dinh. Nhưng đến bây giờ thì khác, vì đã nghỉ hưu nên bà con đều gọi là bác, là ông Giàng Dinh. Điều này cũng dễ hiểu, người Mông sinh con chỉ đặt tên một lần, đặt thế nào gọi thế ấy.
Ông Giàng Dinh là một trong số người Mông tham gia cách mạng sớm. Lúc mười bảy tuổi vì nhà nghèo, quanh năm chỉ biết theo bố mẹ đi cuốc nương chặt củi. Giàng Dinh là người nhanh nhẹn, hát hay, biết kể chuyện nên được nhiều người con gái Mông thích. Bà Pờ La vợ ông bây giờ là nhờ có bạn rủ ông đi sang xã bên chơi chỉ hát có một đêm mà kéo được vợ về nhà.
Ngày ấy, thấy ở bản có một người con trai dân tộc Mông có dáng vóc khỏe mạnh, đẹp trai, tính tình vui vẻ. Tổ công tác do Đảng cử vào vùng đồng bào Mông quê của Giàng Dinh vận động cách mạng, xây dựng phong trào, Giàng Dinh đã được các đồng chí trong đội tuyên truyền tìm đến. Lần đầu gặp cán bộ người Kinh Giàng Dinh cứ sờ sợ, qua mấy lần làm quen mới dám giáp mặt. Một hôm cán bộ đến tận nhà hỏi Giàng Dinh:
– Em có biết Việt Minh là ai không? Giàng Dinh nói:
– Cái tai mình mới nghe thấy thôi. Cán bộ hỏi:
– Em có muốn đi theo cán bộ không? Giàng Dinh hỏi lại:
– Đi theo cán bộ để làm gì? Cán bộ nói:
– Đi làm việc tốt thôi, làm đến bao giờ người Mông ta không còn đói khổ mới thôi. Nếu Dinh thích hôm nào nói với cán bộ nhé!
Giàng Dinh không nói gì và từ đấy cán bộ luôn lui tới và đến ở nhà Giàng Dinh đã được bố, mẹ Dinh đồng ý. Như chim quen đàn, cá có bầy. Giàng Dinh đã tập nói và nghe được tiếng phổ thông, qua tiếp xúc với cán bộ, được cán bộ giác ngộ qua câu chuyện trong bữa ăn, khi đi lên nương, lúc cùng nhau vào rừng lấy củi. Và đến một ngày, Giàng Dinh được tuyển vào bộ đội địa phương chiến đấu tại quê nhà. Thời gian đã thử thách Giàng Dinh hết tham gia đánh Pháp rồi đến đánh phỉ. Sống trong quân ngũ, càng ngày Giàng Dinh càng tỏ ra vững vàng dũng cảm, nghe cái súng của thằng địch bắn không biết sợ, trước cái chết của đồng đội không hoang mang chạy trốn về nhà như một số người khác. Có một lần đơn vị cho Dinh về thăm nhà một ngày đêm, lúc ra đi vợ khóc và nói:
– Mày lấy tao rồi để tao ở nhà một mình buồn lắm. Mày còn nhớ hay quên tao rồi!
Dinh nhìn vợ rồi nói:
– Dinh không quên La đâu, nhớ La nhiều lắm, nhưng đi làm bộ đội đánh thằng giặc thì theo đơn vị. Lần trước đây nếu không có bộ đội đánh thằng thổ phỉ ở xã của La thì nó đốt nhà và giết người dân bản mình, không còn bản đến bây giờ đâu.
Qua nhiều lần Dinh nói với vợ để yên cái bụng nên cái đầu của Pờ La sáng dần ra. Sau này, Pờ La đã trở thành cán bộ phụ nữ xã, rồi của huyện và được kết nạp Đảng, trở thành người đồng chí của Dinh.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ mấy năm, Giàng Dinh được phục viên. Tưởng sau những năm đi chiến đấu gian khổ lần này sẽ được ở nhà với vợ con, với nương rẫy làm ăn. Nhưng đến một ngày khi Dinh đi làm nương về hút chưa xong điếu thuốc lào, cơm nấu trên bếp chưa kịp chín thì có cán bộ đến nhà. Dinh nhận ra người cán bộ ấy chính là bí thư huyện ủy đến xin Dinh về huyện công tác. Qua một hồi lâu, ông nói rõ lý do huyện có ý định xin Dinh về bố trí làm việc. Tập thể huyện ủy đã bàn đi tính lại không còn ai ngoài Dinh có thể đảm nhiệm công việc sắp tới. Và cuối cùng ông bí thư huyện ủy hỏi Dinh có đồng ý lên nhận công tác trên huyện không? Với Dinh lúc này khó trả lời quá, biết nói thế nào để cán bộ hiểu. Vì vậy Dinh chỉ trả lời được mấy câu gọn lỏn:
– Tôi xa vợ con lâu quá rồi, bốn năm đi bộ đội và mới được phục viên về nhà vài tháng Nhưng cái nhà mình khổ quá, năm nào cũng đói ăn hai, ba tháng, vợ mình lại mới sinh con, nhìn nó còn đỏ như cái hoa chuối rừng. Nếu đi theo cán bộ thì khó khăn nhiều đấy.
Bí thư huyện ủy nghe Dinh trình bày là điều rất thật, thấy thương và thông cảm với hoàn cảnh nhà Dinh. Và để cái nghĩ của Dinh thật thoải mái. Bí thư căn dặn Dinh:
– Thôi được rồi, với lý do Dinh nêu ra là đúng cả, Dinh cứ bàn với gia đình, vợ con xem Nếu ưng lời cán bộ thì lần sau trả lời cũng được.
Sau buổi gặp gỡ ấy, lòng Dinh cứ xốn xang. Đêm đi ngủ, ngày lên nương lúc nào cũng như nghe tiếng nói văng vẳng của bí thư huyện ủy với mình vậy. Nhưng nghĩ tới hoàn cảnh gia đình, Dinh cứ tự hỏi: Mình mà bỏ nhà đi lần này như con chim xa cái tổ liệu vợ mình có vui không? Con cái còn nhỏ vắng mình liệu vợ có nuôi được không? Sau lần đó, khi thì bí thư huyện ủy cử cán bộ gặp Dinh, khi thì thông qua người về xã làm việc. Qua mấy lần tìm gặp, Dinh đã quyết định nhận lời. Pờ La đồng ý cho Dinh đi công tác ở huyện.
Hôm Dinh về huyện nhận nhiệm vụ, Pờ La cứ dặn đi dặn lại: “Cái chân mày quen đi xa rồi, tao có giữ cũng không được, mày phải nhớ cái lời tao nói ở cái đầu, cái bụng đấy”. Nghe vợ nói cũng thấy thương, Dinh không giấu nổi chút buồn trên mặt. Dinh nói với vợ: “Lần này Dinh không đi xa như trước, chỉ ở huyện mình, công việc lúc nào ít Dinh xin về thăm La đừng lo. Dinh nhớ con May và thằng Dơ lắm”. Giàng Dinh lại tiếp tục con đường đi theo Đảng, theo cách mạng. Năm tháng đi theo vụ ngô, vụ lúa hết năm này đến năm khác. Giàng Dinh được học tập nên từ một cán bộ phong trào được lên làm bí thư huyện đoàn thanh niên, Chủ tịch hội nông dân, đến phó chủ tịch huyện, bí thư huyện ủy và tỉnh ủy viên cho đến ngày nghỉ hưu.
Thời gian Giàng Dinh làm bí thư huyện ủy hai khóa có những kỷ niệm không bao giờ quên. Làm bí thư ở cái thời bao cấp, đất nước có chiến tranh nên nhà nghèo túng, lương thực lo cho bảy miệng ăn thật là vất vả. Anh em, bạn bè trên bản, trên xã về thăm Giàng Dinh luôn. Gặp anh em nhiều khi chỉ lấy chén rượu làm vui, thức ăn chỉ có bát canh rau bí, quả su su luộc, có hôm mua được cân đậu phụ là tốt lắm rồi. Có phiên chợ người anh em về chật nhà, xin ngủ lại một tối. Nhưng được cái cùng bà con với nhau nên tất cả đều thông cảm trải chiếu dưới nền nhà kín cả lối ra vào. Có một lần ăn cơm độn sắn lát phơi khô do vợ Dinh mua ngoài chợ chẳng may trong sắn lẫn mấy miếng củ ráy rừng. Khi xới cơm ăn bát của Dinh có miếng củ ráy nên bị ngứa và sưng miệng. Vì có anh em cùng ăn nên vợ chồng Dinh không to tiếng với nhau. Hôm sau Dinh đi dự hội nghị anh em nhìn thấy hai môi sưng mọng lên, anh em hỏi Giàng Dinh đành nói dối là sưng lợi răng. Mãi sau này, vợ nói ra mới biết. Nhiều người nghe còn bán tín bán nghi, chuyện nhà bí thư phải ăn cơm độn sắn, sắn phải mua ngoài chợ, có khi giả nghèo, làm cán bộ như cỡ ông Dinh có bao giờ thiếu gạo ăn. Câu nói ấy là từ mấy bà con người xuôi hàng xóm Giàng Dinh. Sự thực luôn là sự thực. Ai còn lạ gì cái thời bao cấp, khó khăn như thế nào, ngay chế độ tem phiếu, phân phối vợ Giàng Dinh cũng phải đi xếp hàng như mọi người khác. Ngay trong gia đình Giàng Dinh vẫn nói với vợ không được nhờ mượn nhân viên cơ quan, không được cầu cạnh xin thêm cái tốt, hoặc đưa sổ trước cho nhân viên bán hàng để được ưu tiên. Tính cách thẳng thắn của Giàng Dinh là thế, nên nhiều khi vợ cũng không vừa lòng.
Một chuyện khác, hôm ấy vào ngày chủ nhật, cả hai vợ chồng Giàng Dinh gói cơm, mang theo nước uống lên rừng cách nhà khoảng bốn cây số chặt củi. Đến rừng Dinh đi một hướng, Pờ La đi một hướng. Dinh đi tìm cây to để hạ, còn vợ tìm kiếm củi nhỏ. Hôm ấy, Pờ La chặt một cây gỗ khô có tổ ong vẽ, bị động, tiếng ong kêu vù vù nên vợ Dinh phải bỏ chạy. Tron lúc chạy, Pừ La bị thụt xuống hố sâu ngập đầu người và bị dây rừng quấn chằng chịt từ chân đến thân. Gần đến giờ thu củi mang ra đường cái to tìm xe thuê chở về. Dinh tìm vợ và gọi rất to nhưng mãi hồi lâu mới nghe tiếng vợ thưa từ dưới hố vọng lên. Người Dinh sợ run lên và mặt tái nhợt lo vợ bị tai nạn. Dinh tìm đến hố nhìn xuống thấy vợ đang gỡ dây rừng quấn nên Dinh phải dùng đoạn cây thả xuống làm thang cho vợ lên. Hai vợ chồng nhìn nhau vừa hoảng sợ vừa buồn cười khi cái váy của vợ bị rách từ gấu lên tới thắt lưng nên phải dùng dây buộc túm lại về nhà. Số củi hôm ấy chỉ được bốn khúc cây của Dinh và bảy bó củi của vợ. Nếu tính ra tiền, hồi ấy không đáng giá mấy trăm đồng. Ra đường chờ đón ô tô vài tiếng, may gặp được chiếc xe moóc của đội máy kéo của huyện đi lấy cát về, thấy vợ chồng bí thư nên đã dừng lại xếp củi lên xe và chở về. Chuyện tưởng có vậy, nhưng khi lên xe vợ bí thư được ngồi trong buồng lái, còn ông Dinh ngồi trên thùng. Do đoạn đường về thị trấn huyện lắm ổ gà. Bất thình lình ông Dinh bị tung ra khỏi thành xe rơi xuống vệ đường, cũng may lại rơi đúng vào đống cây đỗ tương họ đã đập lấy hạt nên người không làm sao. Chuyện vợ chồng bí thư đi lấy củi là thế. Vậy mà họ cứ truyền miệng nhau: nào là bà vợ bí thư nhẩy dù rơi xuống hố trên rừng, dù bị rách, còn ông Dinh ngồi trên xe moóc cũng nhẩy xuống dù xuống đường,… Rồi có người còn nói: “Ông Giàng Dinh có chức, có quyền trong tay, thiếu gì chỗ nhờ mướn mà phải lên rừng đốn củi cho khổ, chức ấy mà rơi vào người khác thì sướng bằng trời”. Đấy là lời bàn tán của những người ngoài cuộc, đúng hay sai mặc kệ. Riêng với Giàng Dinh lại khác, một con người giản dị, chân thật; không bao giờ nghĩ tới cái lợi cho gia đình và bản thân.
Lại một chuyện khác, khi ông nghỉ phép lên biên giới dự đám cưới cháu gái thì có một người ở xã bên biết tin bí thư huyện ủy Giàng Dinh đang ở nhà anh em nên đã đến báo tin xã mình và xã bên đang tranh nhau nguồn nước, hai bên cãi nhau hàng tháng chưa giải quyết được. Bên nào cũng đòi nguồn nước của mình, họ vác cuốc, gậy định đánh nhau. Nghe người báo cáo xong, Giàng Dinh quyết định rời đám cưới đi đến tận nơi gặp làm việc với cán bộ, chính quyền hai xã. Ngày hôm sau, ông xắn quần theo dân lên tận đầu nguồn con mương nơi xảy ra sự việc. Tới nơi, Giàng Dinh đã thấy hàng chục con người của mỗi bên là dân tộc Dao, dân tộc Mông đang cãi vã nhau. Mặt người nào người nấy đỏ như gà chọi, nặng như cái thớt đá xay ngô. Giàng Dinh đoán là mâu thuẫn của hai dân tộc, nếu không giải quyết thấu đáo đúng lý đủ tình, thì sẽ dẫn đến mâu thuẫn, mất đoàn kết. Giàng Dinh đã cho gọi đủ mặt hai Bí thư, hai Chủ tịch, hai trưởng bản người Dao người Mông trực tiếp sử dụng nguồn nước suối này dẫn về ruộng cày cấy. Khi bà con cả hai bên tập trung đông đủ.
Bí thư Giàng Dinh nhìn tất cả mọi người với tình cảm thân thiện. Trong số đó Giàng Dinh đã nhận ra mấy người mấy tháng trước dẫn con xuống nhập học ở trường nội trú huyện. Giàng Dinh nói chuyện với bà con thấu tình đạt lý. “Suối là do trời đất sinh ra, nguồn nước cũng do trời sinh ra. Người Mông, người Dao ta có ai sinh ra đâu. Vậy đã là của chung là của mọi người, của cả hai dân tộc chúng ta đều có phần. Ta bảo nhau, quy định với nhau, nếu nước to thì thả đều, nước ít thì hôm nay bên này, ngày mai bên kia, cứ như thế cả hai bên đều có nước vào ruộng. Ta thử hỏi: Người Mông no, cái bụng để người Dao đói có tốt không, vui hay buồn? Người Dao thừa nước cày cấy mà ruộng người Mông khô, lúa chết, người Dao vui hay buồn?”. Nghe Giàng Dinh nói, nét mặt mọi người giãn ra, có người đã nở nụ cười mừng vui vì cách giải quyết đúng lý, đúng tình như cơm vào bụng người đói, như nước vào miệng người khát. Từ hôm ấy, hai xã đã họp bàn lên quy ước và lịch tháng về sử dụng nguồn nước chung của hai xã, nhờ vậy mà tình hình đã ổn thỏa.
Sau khi giải quyết tranh chấp nguồn nước xong. Trên đường về huyện. Giàng Dinh đã ghé thăm đồn công an và ngủ lại một đêm. Tối mùa đông trời rất lạnh, nhiệt độ ngoài trời xuống thấp. Đơn vị không có nhà khách nên Giàng Dinh ngủ tại phòng đồng chí liên lạc. Gian phòng kín đáo tốt cho giấc ngủ. Nhưng do sơ suất không báo trước cho đơn vị có sự thay đổi chỗ ngủ của bí thư là Phong liên lạc với trực ban. Vì vậy ca gác đêm hôm đó từ bốn giờ đến năm giờ sáng đồng chí hoàn thành phiên khác vào gọi liên lạc ra gác, không biết là bí thư. Lúc đầu, người gọi gác từ cửa vào: “Dậy gác, đến giờ đổi phiên rồi đấy”. Bí thư hỏi lại: “Gác à! Ừ… ừ…”. Giàng Dinh nghĩ gọi nhầm nên cứ nằm ngủ, trời rét nên trùm chăn kín đầu. Biên giới mùa này rét như cắt da cắt thịt. Sương mù bao phủ chỉ đứng cách nhau chục bước chân cũng không nhìn rõ người. Vậy mà trong bữa cơm tối nay có đồng chí chính trị viên đơn vị đã ở đất này hơn chục năm trời, còn chiến sỹ bốn, năm năm là lẽ thường. Nghĩ mà thương anh em thật. Trong khi Giàng Dinh đang nghĩ như vậy và đang ủ mình trong cái chăn kéo kín đầu thì lại có tiếng gọi từ ngoài cửa:
– Dậy gác! Ngủ quên à? Giàng Dinh vội trả lời:
– Được rồi! Dậy mặc quần áo đã.
Người đốc gác dặn tiếp:
– Sổ gác ở nhà trực ban, sáng mang nộp lên bàn nhà chỉ
Nói rồi cậu ta lặng lẽ đi về nhà ngủ của tiểu đội. Giàng Dinh gác đến sáng với tâm thế vui vẻ như không có chuyện gì xảy ra. Đến giờ, trực ban đánh kẻng báo thức và truyền lệnh của Ban Chỉ huy tiếng nói dõng dạc: Hôm nay, trời rét dưới tám độ, sương mù nặng hạt như mưa nên nghỉ thể dục. Lời công bố vừa dứt thì chiến sĩ nuôi quân báo cáo với trực ban:
– Báo cáo đồng chí Trực ban. Phiên gác từ bốn giờ đến năm giờ có lẽ bỏ gác vì không ai gọi anh nuôi nấu cơm, nên bây giờ mới nhóm lửa bếp.
Nghe xong đồng chí trực ban hỏi có phải phiên gác của đồng chí liên lạc bỏ có phải không? Trong khi đang chờ trả lời thì Giàng Dinh cầm sổ gác từ bốt gác ngoài cổng đi về đến nhà chỉ huy rồi nói:
– Mình xin lỗi vì không xem lời dặn ở trang sau gọi anh nuôi dậy nấu cơm ăn sáng.
Giàng Dinh nói xong thì Đồn phó mới hỏi tại sao đồng chí Bí thư lại dậy gác. Ai là người gọi Bí thư. Sau khi rõ căn nguyên mọi người ngượng tím mặt và đồng chí chỉ huy đơn vị xin lỗi Bí thư. Tâm trạng anh em đơn vị lúc này từ chỉ huy đến chiến sỹ vừa lo lắng, ân hận và được một mẻ cười. Đó là bí thư huyện ủy Giàng Dinh đã chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh gọi gác đêm hôm đo. Và Giàng Dinh coi việc gác là bình thường, đừng quy trách nhiệm cho anh em. Gọi nhầm đâu phải là lỗi vả lại tớ cũng là người lính một thời cơ mà! Đấy là lời khuyên bộc bạch của bí thư đối với các đồng chí trong Ban Chỉ huy.
Hơn ba mươi năm công tác cộng với tuổi đời quy định ông Giàng Dinh đã được nghỉ hưu. Ông bà bên nhau ở tại thị trấn huyện. Hai ông bà mùa nào cũng về quê cấy ruộng, trồng ngô và nuôi bò ở bãi đằng sau núi như một trang trại nhỏ. Hai ông bà thay nhau trông coi nên đã thu về những kết quả đáng mừng. Nhờ vậy mà hai suất lương hưu của thời bao cấp ít ỏi đã giúp cho hai đứa con học xong đại học. Hai ông bà làm lụng vất vả quanh năm khi thì đến vụ làm nương, cấy ruộng về bản, khi ở trang trại coi bò, trông đàn dê. Nhưng cả hai ông và bà không vắng mặt lần họp nào của khu phố, mọi cuộc vận động đều tham gia đầy đủ. Một lần có đồng chí cán bộ ở Ban tổ chức Trung ương Đảng và xuống huyện làm việc và xuống thăm gia đình Giàng Dinh và hỏi: “Đồng chí về hưu hiện tại đời sống gia đình có khó khăn gì không? Giải quyết chính sách cho đồng chí có còn gì vướng mắc đồng chí cứ đề đạt phản ánh để chúng tôi tiếp thu và giải quyết,…”. Giàng Dinh vẫn điềm đạm và vui vẻ đáp: “Đất nước còn khó khăn, giải quyết chế độ đối với tôi thế là được rồi đồng chí ạ! Mình về hưu đã năm, sáu năm nay cũng làm được nhiều việc cho gia đình. Ba gian nhà gỗ này tự làm lấy ở nên mình không mong gì hơn nữa vì cái bụng, cái đầu thì nhỏ nhưng nó chứa cái ham muốn to như cái núi vẫn vừa, người Mông ta vẫn nói thế”.
Từng câu nói của Giàng Dinh tuy mộc mạc nhưng chân thật và sâu lắng. Ông Giàng Dinh như cây gỗ già giữa rừng, tuy lá thưa, cành già cọc, nhưng cái vân cái lõi bên trong vẫn chắc. Giàng Dinh bây giờ vẫn chân chất như ngày xưa. Một thời biết bao nhọc nhằn, lo lắng, trách nhiệm với Đảng, với dân. Và vì vậy đã thành chuyện của riêng Giàng Dinh một thời không bao giờ quên.
THANH LUẬN
>> Xem thêm: Tạp chí Văn nghệ Lai Châu