Vũng Rô – nơi ký ức vẫn còn vọng sóng – Hà Minh Hưng

Đầu mùa thu, trong tiết trời miền Trung còn vương chút nắng gắt, đoàn nhà văn dự Trại sáng tác Văn nghệ Quân đội có chuyến đi thực tế về Vũng Rô (Phú Yên) nơi từng là bến cập của những con tàu không số huyền thoại của đường Hồ Chí Minh trên biển. Vùng vịnh nhỏ ba bề núi ôm không chỉ nổi tiếng bởi vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là chứng nhân một thời máu lửa, nơi từng tiếp nhận những chuyến vũ khí bí mật chi viện cho chiến trường miền Nam.

Xe khách đón đoàn từ khu du lịch biển Sao Mai, rồi men theo con đường ôm lấy triền biển, chầm chậm đưa người lữ khách lên dần đỉnh đèo Cả. Từ điểm cao phóng tầm mắt ra xa, non nước hiện lên hùng vĩ như bức họa lớn mở ra trước mặt. Xe lăn bánh thong thả như để dành thêm từng khoảnh khắc cho mỗi người ngắm nhìn cảnh sắc. Một bên là vách núi dựng đứng, lớp lớp đá xám trầm mặc, in dấu ngàn năm gió mưa bào mòn, hiểm trở mà kiêu hùng. Bên kia là vịnh Vũng Rô xanh biếc, sóng vỗ rì rào vào bờ cát trắng. Làng chài bình yên nép mình bên sóng nước, sát mép bờ ken dày những bè nổi; ngư dân ung dung kéo lưới, tiếng cười giòn tan hòa cùng vị mặn gió khơi. Ngoài xa, hàng dài con tàu nối nhau rẽ sóng vươn khơi.

Xe chạy êm ru trong điệu nhạc rì rầm của sóng biển. Mỗi khúc cua lại mở ra một góc nhìn mới. Ở đó, từng con sóng vẫn thì thầm như muốn kể lại câu chuyện hơn nửa thế kỷ trước, khi biển bùng cháy lửa đạn trong trận chiến giữ bí mật cho con đường Hồ Chí Minh trên biển. Giữa khung cảnh hôm nay, bè cá dập dờn, hoa muống tím rập rờn trên cát, chúng tôi càng thấm thía rằng, vẻ đẹp Vũng Rô không chỉ nằm ở màu nước xanh ngọc bích hay dáng núi trùng điệp, mà còn ở lớp trầm tích lịch sử được kết bằng máu xương, bằng sự hy sinh lặng thầm của những người lính biển năm xưa.

Tại nhà trưng bày di tích, đoàn chúng tôi vinh dự được gặp Trung tá Hồ Đắc Thạnh, một trong những thuyền trưởng đã đi vào huyền thoại của những con tàu Không số. Người lính năm xưa nay mái tóc đã bạc, dáng đi chậm rãi, nhưng ánh mắt vẫn sáng và giọng nói thì ấm áp, chắc nịch như tiếng sóng vỗ bờ. Ông sinh ra ở Quảng Nam nhưng cả cuộc đời gắn bó với biển, với những chuyến tàu đặc biệt của Đoàn 125 Hải quân, đơn vị chuyên trách tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển.

Ít ai biết rằng, từ năm mười sáu tuổi, Hồ Đắc Thạnh đã khoác lên mình màu áo lính, trở thành anh Vệ quốc đoàn. Công việc thuở ban đầu của chàng thanh niên không phải cầm súng ngoài trận tuyến mà lặng lẽ, bền bỉ trong hậu phương: in ấn, phát hành văn bản chỉ huy từ tỉnh đội Phú Yên xuống tận huyện, xã. Trang giấy lem mực, con chữ còn mùi sáp in ngày ấy cũng góp phần vào mạch sống kháng chiến. Đặc biệt, ông là người tham gia in ấn tờ Quân Du Kích – một ấn phẩm nhỏ bé nhưng có sức lan tỏa lớn, được duy trì đều đặn hằng tháng, như ngọn lửa thắp lên niềm tin chiến thắng trong lòng quân và dân. Ngồi lắng nghe ông kể, chúng tôi bỗng thấy khoảng cách thời gian nửa thế kỷ như được xóa nhòa. Trước mắt hiện ra hình ảnh một thư sinh mảnh khảnh, đôi tay vương mùi mực, ánh mắt rực sáng niềm tin. Và rồi, chàng trai ấy đã bước tiếp hành trình thành người thuyền trưởng quả cảm, chèo lái những con tàu bí mật, vượt qua bão tố và vòng vây kẻ thù, viết nên một bản hùng ca bất tử trên con đường Hồ Chí Minh giữa trùng khơi.

Giữa âm vang sóng biển rì rào tại Nhà trưng bày Vũng Rô, chúng tôi được chứng kiến một người lính hải quân hơn chín mươi tuổi, giọng nói đanh thép, ánh mắt còn quắc thước, trí nhớ minh mẫn đến từng chi tiết. Ông chậm rãi kể: Tôi vẫn nhớ như in một đêm biển lặng, con tàu nhỏ lặng lẽ rẽ sóng vào Vũng Rô. Khi ấy tôi còn rất trẻ, mang trong tim ngọn lửa hừng hực của tuổi đôi mươi. Biển khơi trước mặt như một thử thách khôn lường: có thể sáng mai ta sẽ cập bờ, cũng có thể sẽ nằm lại trong lòng sóng dữ. Nhưng chẳng ai trong chúng tôi nao núng. Chỉ cần vũ khí vào tới chiến trường, mọi mất mát chúng tôi đều sẵn sàng đón nhận. Vũng Rô khi ấy là vịnh nhỏ ba bề núi ôm, mặt biển phẳng lặng như tấm gương khổng lồ. Đêm xuống, chỉ còn tiếng mái chèo khua khẽ, tiếng cá quẫy đuôi và ánh đèn pin chớp tắt của đồng đội trên bờ. Vũ khí từ khoang tàu chuyền tay nhau, gùi lên núi, lẩn vào rừng như những dòng máu đỏ nuôi sống cơ thể Tổ quốc. Mỗi chuyến đi trót lọt, chúng tôi lại thở phào, coi như vừa vượt qua một lần sinh tử.

Rồi một ngày định mệnh ập đến “16 tháng 2 năm 1965”. Chiếc tàu chở gần trăm tấn vũ khí vừa cập bến thì máy bay trinh sát Mỹ gầm rú trên đầu. Trong khoảnh khắc, biển trời Vũng Rô rung chuyển bởi tiếng bom rít, tiếng đại liên nổ dồn. Địch bao vây tứ phía. Chúng tôi siết chặt tay nhau, mắt nhìn mắt, không ai nói ra nhưng trong lòng đều hiểu: hoặc giữ được bí mật, hoặc tan cùng con tàu. Ngọn lửa bùng lên, vũ khí nổ tung, con tàu chìm dần trong khói lửa đỏ rực. Nhiều đồng đội của tôi đã nằm lại giữa biển khơi hôm ấy. Tôi may mắn sống sót, nhưng ký ức về giây phút con tàu hòa vào sóng nước thì không bao giờ phai nhạt. Đó là sự hy sinh để giữ trọn lời thề: “Thà chết, không để địch phát hiện đường Hồ Chí Minh trên biển”.

Qua những câu chuyện, chúng tôi biết thêm, trong suốt hành trình, ông Hồ Đắc Thạnh và đồng đội nhiều lần đối mặt với tàu chiến, máy bay Mỹ rình rập. Có chuyến tàu bị lộ, họ buộc phải quyết đoán cho nổ tàu để giữ bí mật. Mỗi chuyến tàu thành công không chỉ là chiến công của thủy thủ đoàn mà còn mở ra con đường tiếp vận huyết mạch, giúp chiến trường miền Nam có thêm vũ khí, khí tài chiến đấu. Trong mắt đồng đội, ông luôn là người thuyền trưởng bình tĩnh, quyết đoán, biết chọn hải trình hiểm hóc, tận dụng thời tiết, thủy triều và địa hình để “qua mặt” kẻ thù. Với đồng đội, ông là chỗ dựa vững chắc; với kẻ thù, ông như “bóng ma trên biển”.

Trọn vẹn “12 chuyến tàu”, ông chỉ huy, không chuyến nào thất bại trong nhiệm vụ đưa hàng vào Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, Hồ Đắc Thạnh tiếp tục công tác trong Hải quân, giữ nhiều chức vụ quan trọng. Ông được phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” vì những chiến công đặc biệt xuất sắc trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển. Đến hôm nay, ông vẫn là một nhân chứng sống, miệt mài kể lại những câu chuyện huyền thoại tàu không số cho các thế hệ sau bằng tất cả sự xúc động, tự hào và niềm tin son sắt vào Tổ quốc.

Theo những trang tư liệu lịch sử, tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển đã viết nên một bản trường ca huyền thoại: hơn hai nghìn chuyến tàu vượt sóng gió, vận chuyển hàng chục nghìn lượt cán bộ, gần 160 nghìn tấn vũ khí, cập bến an toàn tại 19 bến bãi dọc miền Trung và miền Nam. Trong số ấy, Vũng Rô là một điểm đến đặc biệt. Những năm 1964-1965, vùng vịnh nhỏ ba bề núi ôm này đã đón bốn chuyến tàu cập bến thành công, mở ra con đường huyết mạch chi viện cho chiến trường. Và cũng nơi đây, ngày 15/2/1965, khi tàu Không số bị lộ, các chiến sĩ hải quân đã ngoan cường chống trả lực lượng địch đông gấp bội, nhiều người anh dũng ngã xuống giữa biển lửa, để giữ trọn bí mật cho Tổ quốc. Máu các anh đã hòa vào sóng, khắc tên Vũng Rô vào sử sách như một dấu mốc bất tử. Năm 1997, Nhà nước đã công nhận nơi này là Di tích lịch sử quốc gia – không chỉ để tưởng nhớ, mà còn để tôn vinh sự hy sinh oanh liệt và khẳng định niềm tự hào bất diệt của dân tộc.

Chúng tôi theo chân người thuyền trưởng năm xưa ra thăm Khu di tích Đường Hồ Chí Minh trên biển, tọa lạc ở Bãi Chùa. Trên khoảng đất rộng một héc-ta, khu di tích như một bức tranh ký ức được khắc bằng đá và gió biển: tượng đài con tàu Không số vươn mình hiên ngang giữa trời, nhà tưởng niệm uy nghi trầm mặc, những phù điêu đắp nổi tái hiện cảnh đoàn tàu vượt sóng, và dấu tích nơi con tàu năm xưa được các chiến sĩ tự tay hủy để giữ trọn bí mật. Tất cả khiến lòng người bâng khuâng, như nghe tiếng sóng ngân vang bản hùng ca bất tử.

Đoàn chúng tôi đi dọc Vũng Rô để cảm nhận nhịp sống hôm nay trên vùng đất từng một thời máu lửa. Làng chài nơi đây nay quần tụ gần bốn trăm hộ dân từ nhiều miền về sinh sống. Bà con làm nghề chài lưới, nuôi tôm hùm, chế biến hải sản và dịch vụ. Ngôi đình làng bên bờ vịnh được tôn tạo khang trang như một điểm tựa văn hóa bền lâu. Cảng biển được nâng cấp, đủ sức đón những chuyến tàu lớn với lượng hàng hóa thông qua hơn nửa triệu tấn mỗi năm, một đầu mối quan trọng cho kinh tế cả vùng. Trước ngày mùng một tháng bảy, Vũng Rô thuộc xã Hòa Xuân Nam, thị xã Đông Hòa (Phú Yên), nay sáp nhập thành một trong những khu kinh tế năng động của tỉnh Đắc Lắc. Vùng đất này vừa mang phong cảnh hữu tình, vừa ẩn chứa tiềm năng phát triển. Trên mặt nước hơn 1.600 héc-ta xanh ngọc, Vũng Rô được xếp vào một trong mười vịnh biển đẹp nhất Việt Nam. Kề bên đèo Cả, quần thể danh thắng như hồ Hảo Sơn, Đá Bia, Bãi Tiên, Bãi Bàng, Bãi Môn… đang ngày càng cuốn hút du khách. Đặc biệt tuyến đường ven biển dài 35km nối từ Tuy Hòa tới Vũng Rô đã mở ra chân trời mới, đưa vùng đất này từ trang sử hào hùng bước tiếp vào hành trình phát triển rạng rỡ.

Trong nhịp sóng hôm nay, ta không chỉ nghe tiếng lao xao của biển, mà còn thấy vang vọng mồ hôi ngư dân và máu xương cha anh thuở trước. Vũng Rô – nơi quá khứ và hiện tại cùng neo đậu, nơi lòng người bỗng lặng lại giữa muôn trùng sóng nước. Và khi rời bước, ai cũng mang theo một lời hẹn thầm: sẽ quay trở lại, để nghe sóng kể chuyện những con tàu Không số và bắt gặp nụ cười an yên trên gương mặt người dân biển Phú Yên xưa. Dẫu thời gian đổi thay, Vũng Rô vẫn giữ cho mình vẻ đẹp nguyên sơ mê hoặc. Biển xanh ngọc bích ôm lấy dải cát trắng mịn màng, hoa muống biển tím biếc rập rờn trong gió như nét chấm phá mong manh mà bền bỉ. Chẳng thế mà khách du lịch đến Vũng Rô đã miêu tả thế này “Bình minh từ phía Hòn Nưa dát vàng lên sóng nước, còn khi hoàng hôn buông xuống, cả vòm trời đỏ rực như một khúc ca giao hòa của đất và trời…”.

 Chia tay Vũng Rô, chia tay nhân chứng sống – Anh hùng Hồ Đắc Thạnh, thuyền trưởng tàu 41, trong chúng tôi lại vang vọng lời tựa đầy xúc động trong cuốn hồi ký Nhớ và ghi lại của ông. Những trang viết ấy không chỉ là kỷ niệm riêng của một đời lính biển, mà còn là sự soi sáng thêm cho huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển: “Chiến tranh, cực khổ, gian nan, hy sinh, mất mát đã theo chân tôi suốt hai mùa kháng chiến. Tất cả giờ đã lùi vào dĩ vãng, chiến tranh đã đi qua. Ở tuổi già, ngồi nhìn lại, tôi thấy lòng mình thanh thản bởi đã có những ngày tháng xứng đáng để dâng hiến. Đất nước hôm nay đang chuyển mình, phía trước còn vô vàn khó khăn, nhưng nào có gì sánh được với những năm tháng gian khổ đạn bom, những ngày mênh mông giữa biển khơi chết chóc, hy sinh. Tôi nguyện với lòng: trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng không được phép quên những người đã cùng ta một thời băng rừng lội suối, vượt sóng gió Biển Đông, đối mặt với quân thù và vĩnh viễn nằm lại chiến trường, hay đã gửi một phần xương máu để đổi lấy ngày hôm nay. Hãy sống xứng đáng với họ!”.

HÀ MINH HƯNG

 

> Xem thêm:

Tạp chí Văn nghệ Lai Châu

Nậm Hàng – khúc ca ngày mới – Thanh Tám

Dòng chảy ký ức và hiện tại trong Tết Độc lập – Châm Võ

 

 

 


Bài viết liên quan


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.