Thào Ly vạch lá rừng chui ra từ nương sơn tra, ướp sương mù đặc sánh. Da mặt cô hồng như táo chín, nhuốm sương làm lọn tóc bên má phất phơ. Từng bước đi lù cở nặng lắc lư. Sáng sớm nay Thào Ly tự dưng sốt ruột, vội vã về gặp bà.
– Ui Thào Ly à, cháu nội về sớm thế?
Thào Ly giật mình, nắm chặt quai lù cở ngửa mặt nhòm ra. Có người đầu đội mũ, mặc quân phục màu xanh. Trên ngực đeo huy hiệu lấp lánh, sau lưng một túi khít màu chàm căng phồng. Từ trong nhà bước ra, mỗi bước đi gót giày kêu khe khẽ nom như khách từ xa tới nhà. Bà Thào Máy là bà nội của Thào Ly. Ngày thường bà chân đất, váy thổ cẩm và áo Mông bạc màu, khó đoán.
– Bà Thào Máy đóng quân phục đẹp lão quá. Bà đi đâu thế?
– Thào Ly mải hái sơn tra trên núi không hay. Bà có giấy mời đi dự đại hội cựu chiến binh trên huyện đấy.
Giọng Ly hờn dỗi:
– Sao bà đi vội mà không nhắn cho cháu với.
– Tối qua chủ tịch hội mới báo cho. Xe ô tô đang chờ bà đầu bản đấy. Bà chỉ kịp nhắn hàng xóm cho Thào Ly thôi.
– Chả đi cũng chẳng sao. Lâu lắm có thấy bà đi họp hành gì đâu?
– Lần này mà bà khất họp thì tội to. Bà mong gặp đồng đội cũ, chẳng biết ai còn ai mất. Nói vụng cứ đến ngày hai bảy tháng bảy là bà giật mình thon thót. Bà mơ đến bác Mùa Súa, đồng đội cũ. Thực ra bà chuyển sang Trạm Tấu từ lâu chẳng có tin về nhau, nay có dịp vắng sao đành.
Thào Ly bần thần chớm hỏi:
– Bác Mùa Súa là ai, cháu chưa nghe bà nói bao giờ.
– Chắc bác ấy hy sinh rồi, cùng nấp trong hầm tránh bom với bà ở đèo Chẹn – Bà cười như khóc – Cũng coi như chuyến đi họp “dối già”, Thào Ly à.
Bà ngần ngừ tiếp:
– Nói trước bước không qua, nhưng mà may ra lần được manh mối xin việc cho cháu Thào Ly. Chứ học xong cất bằng trong tủ mốc cả lên. Đêm đêm lại hí hoáy vẽ tranh. Trên vách treo kín tranh. Bà chỉ thấy bức Đỉnh gió là ưng ý. Còn thì… Chắc cháu Thào Ly vẫn say nghề hội họa lắm…
– Vâng, ba năm học, nghề ngấm vào người mê là phải – Thào Ly nhả lời.
Nghe cháu nói, bà Thào Máy rơm rớm vài giọt lệ đặc như sương lăn trên gò má nhăn nheo, vì khó nhọc và cả thời gian đằng đẵng. Dăm ngày nay Thào Ly ở rốn trên nương hái sơn tra. Mùa sơn tra đang chín rộ, dân du lịch thích táo mèo như bùa ngải. Loại cây thuốc quý chữa bệnh như thần. Thương nhân cũng thi nhau mua bán. Giá lên vùn vụt từng ngày.
Lần này bà Thào Máy quyết đi dự đại hội cựu chiến binh, là chuyến đi hiếm hoi của đời bà. Chắc hội cựu chiến binh khéo động viên, mới rủ được bà. Có thể bà nặng duyên vì đồng đội cũ đang nằm trong lòng đất. Chém mồm bà đi lần này là dối già chăng. Bà cũng đã hơn tám mươi tuổi rồi… Lần mẩn mãi, Thào Ly móc trong túi đưa ra hai tờ xanh. Món tiền bán sơn tra hôm qua, nói:
– Hượm chút, bà cầm chút tiền ra huyện mà tiêu vặt.
Bà vội cười:
– Đi vài hôm mà bíu ríu như ra tỉnh không bằng. Hội cựu chiến binh bao trọn gói. Thào Ly đừng lo.
***
Hồi trẻ bà của Thào Ly đi bộ đội phục vụ chiến dịch Điện Biện Phủ. Tiếng là chiến dịch Điện Biên Phủ, nhưng bà phục vụ ngay cung đường đèo Chẹn – Cò Nòi – Tà Xùa dài tám mươi cây số, tại quê hương. Cung đường đó, với Thào Ly là mỗi bước đi đều tưới máu ông cha. Sau này Thào Ly có dịp đi qua tượng đài Cò Nòi, đọc văn bia mới gai xương sống. Hơn một trăm chiến sĩ đã hy sinh, để cho Điện Biên đi vào bất tử, với câu thơ “chấn động địa cầu”.
Cuộc sống hòa bình bà Thào Máy như trẻ lại. Đất nước hồi sinh. Bà lập gia đình dựng nhà ngay bản Tà Xùa quê hương. Dẫm vào bước của bố mẹ mình, cô Thào Ly lại theo nghề sư phạm vùng cao, chuyên ngành hội họa. Nhưng thời buổi mỗi khác. Tốt nghiệp xong chẳng có việc làm. Dạo này quê Tà Xùa khởi sắc. Vùng quê mây phủ giờ sáng láng như gương. Những con dốc, đèo khe lẩn khuất mù sương như Đỉnh gió, Mỏm đầu rùa, Sống lưng khủng long, Hang vợ chồng A Phủ… neo trong lòng du khách. Những nhà ăn, khu nghỉ dưỡng, khách sạn, homestay mọc lên như măng mùa xuân. Ngày đêm khách du lịch, săn mây… kéo đến đông như hội.
Ai từng đi Quốc lộ 37 không thể quên được đèo Chẹn. Con đèo sương giăng tiếng Thái gọi là “Pu Chen”. Nhưng từ ngày chiến dịch Điện Biên mở ra thành nổi tiếng. Đó là con đường độc đạo từ miền xuôi lên chiến trường Điện Biên. Vì Điện Biên, hồi đó trai tráng nhập ngũ, đàn bà con gái đi công dân hỏa tuyến, thanh nhiên xung phong. Cung đường ra trận ngày đêm dập dịch, dù hiểm nguy nhưng vui như hội xòe. Trung đội trưởng của bà là ông Mùa Súa người Mông bản Xím Vàng, quản hai mươi lính “tóc dài”. Đảm đang san lấp hố bom, mở đường, tải gạo súng đạn ngay trên đất quê bản Chẹn của bà Thào Máy.
Một đêm trăng lu đội của bà quăng mình vào san lấp hố bom trên đỉnh đèo. Chợt nghe máy bay Bà Đầm ì ì lượn trên đầu. Ngay đấy phóng liền chùm pháo sáng rực, như ma trơi. Như hẹn nhau ba chiếc máy bay Hen Két ném một loạt bom vào đỉnh đèo Chẹn. Bà và ông Mùa Súa nhảy vào hầm trú ẩn ngay đường. Tiếng nổ làm căn hầm của bà và Mùa Súa như hất ngược lên trời, rồi ập xuống chôn sống cả hai người. Cùng lúc đất đá như động mường trùm kín cả cung đường đèo Chẹn.
***
Bà Máy cùng mấy người líu rúi bước vào hội trường huyện. Trước sảnh lộng lẫy cờ hoa. Tấm băng zôn phồng căng, dòng chữ đỏ như son: “Nhiệt liệt chào đón đại biểu về dự đại hội cựu chiến binh” như vẫy chào khách quý.
Rất nhiều người đứng quanh hội trường, da mặt đồi mồi nói cười móm mém. Một người trang phục truyền thống Mông màu đen. Ngực đeo phù hiệu thương binh màu vàng, cụt tay tận nách. Ông thương binh nhận ra bà Thào Máy, liền đưa một cánh tay lành bắt tay bà rất chặt, miệng kêu khàn khạt như người viêm họng hạt:
– Bà Thào Máy bản Tà Xùa phải không?
Chợt bà Máy như bị nhồi máu cơ tim, choáng váng, không thể tin vào mắt mình… Ông thương binh luống cuống, phải đưa cả bàn tay cụt đỡ lấy bà. Trước khi ngất đi, bà còn kịp nhớ. Trong trận bom trên đỉnh đèo Chẹn năm xưa, khi được moi lên từ dưới hầm trú ẩn. Ngực bà đau dữ dội và mỗi lần thở máu hồng tràn ra lỗ mũi. Bà như loạn thần, trí nhớ chẳng khác gì đám khói bom, cuộn lên khét đắng. Đồng đội kể lại, ông Mùa Súa, người có giọng nói khàn khạt bị đứt lìa cánh tay gần tới nách, người te tua xơ mướp như miếng giẻ rách nhúng máu. Ai đó làm hô hấp nhân tạo rồi lắc đầu. Mùa Súa ngưng thở. Chẳng biết thế nào… Còn bà Máy được chuyển lên tuyến sau điều trị. Bệnh án ghi: Bị sức ép của bom, phải cắt một lá phổi. Hưởng thương binh hạng hai.
Thế Mùa Súa còn sống hay đã chết? Câu hỏi nhói tim bà như tiếng búa đinh gõ ván thiên! Giọng khàn khạt như người viêm họng hạt, đúng là của Mùa Súa đang cất lên. Người hay ma. Sau vài phút tỉnh lại bà hú lên kinh hãi:
– Ông trung đội trưởng Mùa Súa bản Xím Vàng.
Ông cựu chiến binh cụt tay kêu to:
– Tôi là Mùa Súa Xím Vàng đây…
Người cựu chiến binh Mùa Súa vui sướng như móc từ dưới mộ lên. Ông ôm chặt bà Máy bằng cả bàn tay lành và bàn tay cụt:
– Còn lâu mới giết được Mùa Súa này, bom nổ không chết – Ông vỗ ngực lép và cười to. Rồi nhìn rất lâu vào mắt bà thì thầm, như lời nói của bảy mươi năm trước:
– Cứu thương chuyển bà đi thì đến chiều Mùa Súa sống lại. Khi đồng đội định đưa Mùa Súa đi chôn, thì nghe tiếng rên. Hay chưa! Máy móc có số, người ta cũng có số, bà Máy à.
Bế mạc đại hội cựu chiến binh, bà Thào Máy nhập đoàn Xím Vàng theo lời rủ của ông Mùa Súa đến nhà ông chơi. Từ cõi chết trở về, lại là đồng đội trong chiến tranh, Mùa Súa quý bà như em gái. Suýt chôn vùng mộ cùng hầm đấy sao? Bà ở lại gia đình Mùa Súa mấy ngày. Thỏa lòng khao khát tâm tình, hiểu thêm gia cảnh của nhau. Bà tỏ thêm gia đình Mùa Súa có hai người cháu nội đều thành đạt. Chị đầu là Mùa Hoa đang làm phó chủ tịch xã Xím Vàng. Cháu trai là Mùa Dơ là giáo viên cắm bản trường Đỉnh Gió. Mùa Dơ năm nay ba mươi tuổi chưa lập gia đình. Ông Mùa Súa mong ước cho Mùa Dơ lấy vợ. Người Mông ba mươi tuổi là ế vợ chỏng chơ. Như thế thì ông Mùa Súa có chết cũng toại nguyện. Được lời như cởi tấm lòng bà Thào Máy cũng bày tỏ tấm lòng tơ vò bấy nay:
– Tôi cũng có cháu gái chưa lập gia đình. Hay là…
Không hẹn mà nên, Mùa Súa cười như nghé:
– Bà gả cháu gái cho cháu trai tôi thì mổ trâu khao cả bản Xím Vàng.
– Dưng mà nó chưa có việc làm đâu, tấm bằng sư phạm “đắp chiếu” ba năm rồi đấy.
Mùa Súa hơi giật cánh cay cụt, cười nhăn lợi nom rất vui.
– Để tôi bảo cháu Mùa Hoa xem sao. Dịp này huyện đang tuyển giáo viên đấy bà ạ.
– Trời ơi gặp may rồi – Bà cũng kêu lên.
Nghĩ một lát Mùa Súa bốc máy gọi điện cho ai, một lát xong vui lắm, nói:
– Với tinh thần cựu chiến binh ta quyết luôn. Bà về nhà bảo cháu gái làm hồ sơ xin việc sang đây. Tôi vừa nói điện thoại với cháu Mùa Hoa xong. Nó nói sẽ huyện đang tuyển dụng giáo viên đợt này. Vụ nộp hồ sơ giáo viên giao cho Mùa Hoa, chắc sẽ thành công.
Bà Thào Máy lại ôm ngực như nhồi máu cơ tim, chỉ nói được vài từ:
– Trời ơi!
Ông Mùa Súa cũng vui không kém nói:
– Duyên già của cựu chiến binh vẫn còn tươi. Đồng chí Thào Máy ơi.
Tưởng đi huyện ba ngày, vui quá bảy ngày bà Thào Máy mới về bản Tà Xùa.
Sốt ruột cháu Thào Ly ra Cổng Gió đón bà.
Trên đỉnh đèo nắng non loe sáng. Chiếc Dream phanh nhẹ, làn bụi hồng chùng chình lơ lửng rừng thông. Xe ngưng. Bà níu áo người mặt trắng nói như hát:
– Cháu Mùa Dơ lấy xe chở bà về nhà đây.
Thào Ly chưa hiểu gì, tai chua tai ngọt. Mà lạ chưa. Mấy bữa trước đi lên huyện có xe của chi hội đón. Lúc về có cháu trẻ trai đưa. Thoáng chút ngỡ ngàng, Thào Ly vẫn bước tới bên, cầm tay chào:
– Anh Mùa Dơ à, mời anh về nhà thăm bà thăm em.
– Ừ đưa bà đến nơi đến chốn chứ. Ngôi nhà dưới kia à – Mặt trắng như bột nếp, Mùa Dơ nói tự tin như đã quen từ trước.
– Vâng, vâng – Thào Ly vừa nói vừa chạy trên trước trỏ nhà.
Tối về có dịp Thào Ly mới hỏi bà:
– Có phải ông Mùa Súa mà bà vẫn mơ những ngày hai bảy tháng bảy hằng năm không?
Bà chưa nhả lời, Thào Ly tiếp:
– Chính là ông nội của anh Mùa Dơ đây không.
Bà Thào Máy như mơ ngủ, chắc niềm vui dập dồn như con sóng dịu êm ru bà đi trong cơn gió ngọt lành. Mãi mới trả lời:
– Đúng rồi cháu yêu!
Bà vui sướng như mơ. Gặp người trung đội trưởng đội mồ đi lên. Đúng là ông Mùa Súa cao số, chết bom đã đào huyệt vẫn kêu rên. Ông Mùa Súa là người đại phúc. Đất nước thanh bình, con cháu làm ăn có danh có phận. Cháu trai làm giáo viên cắm bản, cháu gái làm tới phó chủ tịch xã, phúc to như trời…
***
Bản Tà Xùa đang mở hội hái quả sơn tra. Đêm hội đó Thào Ly và Mùa Dơ nói với nhau những gì mà hợp nhau như sáo với khèn. Khuya đến hai đứa bật đèn soi kỹ hồ sơ xin việc đã viết từ trước. Thào Ly dỡ bức tranh Đỉnh gió treo trên vách xuống, bọc giấy điều để sẵn trên bàn. Ăn sáng xong, Thào Ly xin bà đến nhà nộp hồ sơ và thăm gia đình ông Mùa Xúa. Không quên chọn bức tranh Đỉnh gió đẹp nhất làm quà. Được bà vui vẻ gật đầu, Mùa Dơ chào bà rồi lái Dream đèo Thào Ly về bản Xím Vàng. Gái đẹp ôm eo chàng trai trẻ. Chàng trai lái Dream như cơn gió về bản Xím Vàng.
Thời gian như ngựa lồng vài tuần sau, bà Thào Máy có con chim khách hót vang trước ngõ. Khách quý đến nhà có ông Mùa Súa, chị Mùa Hoa và Mùa Dơ đến xin hỏi cưới theo phong tục người Mông cổ truyền.
Việc xin hỏi định ngày cưới đã xong xuôi. Ông Mùa Súa trịnh trọng đưa tờ giấy cho bà Thào Máy. Chị gái của Mùa Dơ đứng bên xúc động nói:
– Thào Ly đã có quyết định nhận việc trường tiểu học Đỉnh Gió, cùng trường với Mùa Dơ…
Vừa nghe đến đó bà Thào Máy như đi trên mây. Bà Thào Máy chắp tay nói:
– Ơn chị to như núi… – Thấy vậy chị Mùa Hoa vội níu tay bà đứng lên nói như thanh minh:
– Xin bà đừng làm thế. Trường hợp của Thào Ly minh bạch chẳng phải công ơn của ai. Hồ sơ ghi Thào Ly bằng tốt nghiệp giỏi, thành phần dân tộc, cháu của thương binh được ưu tiên. Chẳng phải nhờ tới danh của chị gái đâu – Mùa Hoa cười tươi như hoa sơn tra. Cảm ơn tác giả Thào Ly đã tặng chị bức tranh Đỉnh gió, phong cảnh đỉnh gió đón bình minh đẹp mê hồn. Vẽ được gió thì giỏi quá, chị phục em. Chị mừng cho Thào Ly đã thành cô giáo cắm bản. Mai kia cưới xong hai đứa đèo nhau dọc đỉnh gió tha hồ ngắm cảnh, vẽ tranh nhé.
Ông Mùa Súa móm mém cười trơ lợi, giọng vẫn khàn khàn như viêm họng hạt:
– Nhà ta cũng có quán trọ miễn phí cho du khách đấy thôi. Tiếng Tây gọi là… chị Mùa Hoa chạm khẽ nhắc “homestay” – Ừ homestay. Rỗi thì săn mây vẽ gió tại homestay tại nhà mình cho ông xem với.
Thào Ly ngước lên Đỉnh gió. Từng lọn mây ngồn ngộn đa sắc như rồng trời, vừa hối hả cuộn xoắn vừa dập dờn thở khói lướt quanh bản mường.
TRẦN NGUYÊN MỸ
> Xem thêm:
