Chị là con gái út cụ trùm Thiện, hơn tôi năm tuổi, học trước tôi ba lớp. Chị đẹp lắm. Đẹp từ mắt, môi, má, miệng, tóc, tai đến thân hình. Đang tuổi dậy thì, ngực nở, mông tròn lẳn, mắt long lanh, nhìn ai là hút hết hồn người ấy. Anh Lý, người yêu của chị cũng vạm vỡ, khỏe khoắn, mặt vuông chữ điền lại có tài thổi sáo.
Xóm tôi có hơn hai chục nóc nhà, toàn dân dưới xuôi phiêu dạt tứ chiếng rồi neo lại bãi sông Chảy này vỡ đất lập xóm. Khúc sông đang chảy thẳng dòng thì va vào ghềnh đá, nước bị cản quẩn thành cái vật xoáy, hút đủ mọi thứ trôi nổi trên sông. Phần lớn là gỗ nứa, thi thoảng có người chết đuối từ mạn ngược trôi về. Người hay phát hiện ra xác chết trôi là chú Đản. Chú kéo vó bè ở cửa ngòi, cứ thấy có bầy quạ đen lượn quanh vật, kêu váng trời là biết có xác người chết quẩn vào vật, vội bơi mảng ra kéo vào bờ, gọi mọi người ra đào huyệt chôn ngay ở mom đất gốc Sui đầu vật. Từ ngày chôn người chết trôi ở bãi đất đầu vật, ai đi qua cũng dừng lại chắp tay vái ba vái. Ngày rằm, mùng một, cánh thuyền chài, lái bè mang xôi, rượu, gà, chân giò lợn lên thắp hương. Xóm có anh Khờ, đã đần lại nói lắp, quen mui cứ ngày rằm, mùng một lại ra vật, lấy xôi, chân giò lợn ăn. Ai hỏi thì lập bập bảo: “vật…giò…vật …giò”. Người trong xóm thấy thế gọi luôn cái vật là Vật Giò. Khi lập xóm cũng lấy luôn Vật Giò làm tên.
Thời chiến, trai tráng đến tuổi đều ra trận hết. Nhà nào có con trai lớn cũng tính chuyện cưới vợ cho con, nhỡ sao còn có người nối dõi. Nhà cụ trùm Sinh cũng sắm cơi trầu chạm ngõ, đánh tiếng với cụ trùm Thiện cuối năm xin cưới chị Nữ cho anh Lý. Đùng một cái, anh Lý có lệnh nhập ngũ, chưa kịp cưới chị Nữ, đã đi tuốt một mạch vào Nam. Ở nhà, chị Nữ được bầu vào Xã Đoàn, phụ trách Thiếu nhi. Trong số trẻ con ở xóm, chị Nữ quý tôi nhất. Từ ngày anh Lý đi bộ đội, chị cưng tôi hơn. Thấy tôi không biết bơi, chị bảo, trai sông Chảy không biết bơi là hèn, xem chị đây này. Loáng một cái, chị đã bơi đến giữa sông, lặn ngụp một hồi mới bơi vào. Rồi chị dạy tôi bơi. Tôi tập mãi mà chưa tự mình bơi được. Có lần chị vừa thả tay, tôi đã chới với, sặc nước. Thấy tôi lóp ngóp lên bờ, chị bảo:
– Giờ còn một cách, em phải cho chuồn chuồn cắn rốn.
Tôi hỏi:
– Sao chuồn chuồn cắn rốn lại biết bơi?
Chị Nữ bảo:
– Chả biết, nhưng có câu “Chuồn chuồn cắn rốn, bốn ngày biết bơi”, em chịu không?
Tôi gật đầu. Chị Nữ lên bãi bắt con chuồn ngô, vừa to, vừa dài gần bằng ngón tay, hai răng nanh chìa ra như hai cái càng, bảo: “Con chuồn chúa này cắn rốn là biết bơi ngay”. – Tôi nằm phơi rốn, nhắm tịt mắt, nín thở, bỗng giật thót mình, cái rốn lồi đau nhói như bị dứt thịt. Theo phản xạ, tôi vùng vậy nhưng không cựa mình nổi vì cặp đùi chị Nữ đã khóa chặt ngang bụng, đành nghiến răng chịu. Sau đận đó, không biết do chuồn chuồn cắn hay cặp đùi chị Nữ mà tôi biết bơi, thậm chí còn dám bơi thi với chị Nữ.
Đất Vật Giò là bãi bồi, không đào được giếng. Tất tần tật, từ lấy nước ăn đến tắm giặt đều ra sông. Chả nhà nào có nhà tắm. Tắm xong, có người mặc quần áo ướt về nhà thay, có người núp vào vặng sậy hay bụi chuối thay, có người, ngó quanh thấy không có ai tụt quần thay ngay trên mảng. Chị Nữ hay rủ tôi tắm sông cùng. Tắm xong chị bảo tôi lặn. Tôi hỏi, lặn làm gì? Chị bảo, lặn lấy cho chị khúc củi chìm. Tôi lặn chưa được một phút đã hết hơi, phải trồi lên. Chị Nữ chưa thay xong quần, cuống quýt giục tôi lặn xuống. Thì ra, chị bảo tôi lặn để thay quần áo. Lần này, lặn chưa hết hơi tôi đã trồi lên. Chị Nữ vẫn chưa mặc xong áo, vội quay người, tôi chỉ kịp nhìn thấy mảng lưng trần trắng hồng của chị. Nghĩ thể nào cũng bị ăn mắng nhưng không thấy chị nói gì, vẫn rủ tôi tắm cùng. Mùa hè, trời oi nồng, sinh hoạt đội về, chị Nữ lại rủ tôi xuống sông tắm. Ban đêm, hai chị em tắm “tiên”, quậy nước tưng bừng. Lúc đầu còn thi thoảng, sau đêm nào chị cũng rủ tôi xuống sông tắm. Tôi hỏi: Chị thích tắm đêm à? – Chị bảo, không tắm không ngủ được; lại hỏi: Có nhìn thấy gì không? – Tôi bảo: Thấy mờ mờ. – Chị bẹo má tôi, nhưng không nói gì.
Chiến sự miền Nam ngày càng ác liệt. Xã tôi đã ba người hy sinh. Lãnh đạo xã mang giấy báo tử đến nhà, tổ chức lễ truy điệu. Một chiều, thấy đoàn cán bộ xã vào xóm, tôi nghĩ, chắc có chuyện rồi. Xóm có năm bộ đội đang chiến đấu trong Nam, không biết báo tử ai đây? Hồi hộp ngóng theo đoàn người, bỗng thấy họ dừng lại trước ngõ nhà cụ trùm Sinh. Anh Lý hy sinh rồi. Tôi choáng váng, đang định chạy đi gọi chị Nữ thì đoàn cán bộ xã lại đi thẳng, rồi rẽ vào nhà bà Ninh. Hôm sau, xã tổ chức Lễ truy điệu anh Thái con bà Ninh. Cả xóm nghỉ làm đồng, nhà nào cũng như có tang. Chị Thê, vợ anh Thái nằm trong buồng, úp mặt khóc. Khi chị Tân, Chủ tịch phụ nữ xã tới, chị Thê mới gượng ngồi dậy. Tôi ở gian ngoài, cũng nghe rõ chị Tân nói: Chị biết em đau xót nhưng phải nén lại em ạ. Em là phụ nữ “Ba đảm đang” phải cố gắng dậy, phát biểu thể hiện lòng căm thù kẻ địch, quyết trả thù để khích lệ tinh thần mọi người. Chị Thê sụt sùi bảo: Vâng, em sẽ dậy nhưng không phát biểu được đâu chị ơi. Chị Tân lại nói: Em phải phát biểu, tỏ rõ tinh thần của hậu phương. Sắp có đợt tuyển quân, không được để sự hy sinh của anh Thái làm nhụt chí khí của thanh niên trong xã. Đảng ủy sắp xét kết nạp em vào Đảng đấy! Cuối cùng, chị Tân cũng thuyết phục được chị Thê. Sau anh Thái, đến anh Đồng, rồi anh Nam có giấy báo tử. Anh Lý vẫn không tin tức gì.
Hết cấp II, tôi về Phủ Bình học cấp III, phải ở trọ, cuối tuần mới đi xe ngựa về nhà lấy gạo. Chị Nữ hẹn, các tối thứ bảy nếu không thấy chị sang nhà thì ra bến sông gặp chị. Tôi đã thành thanh niên nhưng trước chị Nữ, vẫn thấy mình bé nhỏ, răm rắp vâng lời và thích được làm nũng chị. Năm 1967, chiến sự miền Nam càng ác liệt, miền Bắc dốc sức chi viện cho tiền tuyến lớn với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Tôi đang học kì II, lớp 10 thì có lệnh nhập ngũ. Nhận bằng tốt nghiệp đặc cách, tôi về nhà nghỉ một tuần, đợi ngày lên đường. Đêm cuối cùng, lúc tiễn khách ra cổng, thấy chị Nữ đang đứng ở đó. Tôi mời chị vào nhà, chị không nói, không rằng, kéo tôi một mạch ra bến sông, rồi cứ để nguyên cả quần áo kéo tôi lội ào xuống nước. Giữa làn nước sông Chảy trong veo, mát rượi, chị ôm chặt tôi, ghì đầu tôi vào ngực chị. Sóng nước vỗ bờ ì oạp, người hai chị em tôi cũng cuộn lên như sóng. Hồi lâu, chị thì thào: “Ngày xưa chị… chị… chưa cho… anh Lý. Thương anh Lý quá. Giờ lại thương em…”. Cứ vậy, hai chị em giữa dòng nước cho đến khi tiếng gà gáy canh một râm ran khắp xóm mới giật mình dìu nhau lên bờ. Đến cổng nhà tôi, chị Nữ tháo chiếc khăn mùi xoa đang cột trên búi tóc, dúi vào tay tôi, giọng đứt quãng: “Tặng… Lâm… đấy, ngày trước… chị… cũng tặng… anh Lý … chiếc khăn…”. Rồi chị buông tôi, lảo đảo bước đi. Tôi nhìn hút theo bóng chị liêu xiêu như sắp đổ, cho đến khi mất hẳn trong màn đêm mới vào nhà.
Tiểu đoàn tôi lên đường vào Nam, toàn hành quân bộ, hơn năm tháng mới đến Long An. Trận đầu tiên, tập kích tiểu đoàn dù địch ở bãi tràm Trà Cao, Đức Huệ. Lính Yên Bái, toàn dân miền núi, không quen địa hình kênh rạch nên hy sinh nhiều. Lúc đơn vị rút quân, địch bắn pháo chụp của như mưa đá. Tôi đang chạy bỗng thấy nhói ở đùi rồi đổ gục. Lấy tay rờ đùi thấy cả xương. Tôi vội cởi áo buộc chặt vết thương rồi cố lết đi. Chẳng thấy bóng đồng đội nào, hú gọi không có tiếng đáp lại. Lạc rồi. Cố lết. Nhưng càng lết càng thấy toàn tràm là tràm. Nguy rồi. Nghĩ đến thế, rồi ngất đi. Tỉnh dậy, quờ tay thấy vách hầm, sờ vào vết thương thấy đã được băng bó. Sau mới được biết, gần sáng du kích Long An đi tìm kiếm tử sĩ, phát hiện tôi còn sống, mang về gửi một gia đình cơ sở tên là Tư Kiên. Khi tôi khỏe, bác Kiên bảo có chôn một anh bộ đội ngay trong vườn nhà. – “Chú ấy bị mảnh pháo đâm xuyên ngực, cố lết đến vườn nhà tôi thì hy sinh. Trong người không có giấy tờ, đồ vật gì, ngoài chiếc khăn mùi xoa đẫm máu”. Nghe bác Tư kể, tôi vội hỏi: “Bác có giữ lại chiếc khăn ấy không?”. Bác bảo: “Có”, rồi về nhà mở rương, lấy chiếc khăn đem đến hầm cho tôi. Tôi mở khăn, lạnh người, trên khăn có vệt máu loang đè lên dòng chữ: “Lý – Nữ” thêu bằng chỉ hồng, bên trên là hình đôi chim bồ câu đang chụm mỏ. Đúng anh Lý rồi. Tôi kể mọi chuyện với bác Tư và xin bác chiếc khăn. Đêm ấy, bác Tư dẫn tôi ra mộ anh Lý. Bác bảo, không dám đắp thành nấm, chỉ trồng cây vú sữa bên cạnh để đánh dấu. Tay tôi vừa chạm vào cây vú sữa, bỗng một vệt sáng từ trên trời cao vun vút xuống chỗ tôi đứng. Trời không có gió mà tán lá cây vú sữa bỗng rì rào. Hồn anh Lý về? Tôi vội khấn thầm, xin anh phù hộ cho tôi sống đến ngày hòa bình, về báo cho chị Nữ và gia đình biết đã tìm được anh, hứa sẽ đón anh về.
Sau chiến thắng, tôi mới ra Bắc. Lúc này, nhà nước đã đắp đập ngăn sông Chảy làm Nhà máy thủy điện Thác Bà. Xóm Vật Giò nằm dưới đáy hồ. Dân xóm chuyển hết lên Bảo Yên. Về đến nhà, tôi hỏi mẹ về chị Nữ. Mẹ tôi bảo:
– Lấy chồng rồi!
– Lấy ai? Ở đâu hả mẹ ?
Mẹ tôi bĩu môi:
– Theo không thằng lái bè.
Tôi giật mình:
– Sao thế hả mẹ?
– Thì chửa hoang với thằng lái bè, rồi trốn theo nó.
Quả thật, không thể nghĩ những điều mẹ tôi kể lại là sự thật. Lòng tôi trĩu buồn. Nỗi buồn lẫn nỗi xót xa. Giờ biết tìm chị Nữ ở đâu?
Hôm sau, tôi về cảng Hương Lý, thuê một chiếc thuyền máy. Tôi bảo ông lái thuyền:
– Bác cứ cho thuyền men theo dãy núi trông như cái vòi con Voi kia kìa. Xóm Vật Giò ở quãng giữa cái vòi voi, cách chân núi chừng hai cây số.
Ông lái thuyền bảo:
– Chú yên tâm, tôi dân Làng Nồi cũ nên thông thuộc địa hình.
– Vậy bác có biết cây Sui đầu Vật Giò không?
– Chỗ chôn người chết trôi chứ gì? – Rồi bác chép miệng – Mồ vô chủ, lúc nước dâng, chẳng ai chuyển, giờ dưới đáy hồ cả.
Nhìn mặt hồ mênh mông, lăn tăn sóng, tôi nhớ lại bao kỉ niệm, bỗng giật mình khi ông lái thuyền bảo: “Đến Vật Giò rồi chú”. Tôi lấy bó hoa huệ mang theo, ngắt từng bông thả xuống nước. Vừa thả hoa xong, cả một vùng nước đang yên ả bỗng dậy sóng. Máy thuyền cũng chết, thuyền nghiêng lệch về một bên rồi xoay tròn, nước mấp mé cạp nhưng không tràn vào lòng thuyền. Ông lái giật dây khởi động mấy lần nhưng máy không nổ, vội lấy chèo định đánh thuyền ra khỏi vùng sóng nhưng thuyền vẫn xoay tròn. Ông bảo: “Hay chú khấn các vong đi”. Tôi làm theo ông lái, vừa dứt lời khấn thì sóng tan, thuyền cũng thôi nghiêng lệch, xoay tròn. Ông lái giật dây, máy thuyền nổ ngay. Vẻ mặt thất kinh, ông bảo: “Có khi các vong muốn lên thuyền chú ạ”.
Đêm ấy, về nhà, tôi mơ mình ở trong một lâu đài nguy nga tráng lệ. Không thấy ai, tôi cất tiếng:
– Xin hỏi, đây là đâu ạ?
Có tiếng vọng lại:
– Đây là Thủy cung.
Rồi hai người, một nam, một nữ giống như hoàng tử, công chúa trong truyện cổ tích, bước ra bảo:
– Chúng ta vì yêu nhau mà phải cùng chết. Vua Thủy tề thương tình nhận làm con, cho thành bất tử. Cảm ơn nhà ngươi sáng nay đã thả hoa xuống cho các cô hồn. Giờ nhà ngươi có muốn chúng ta giúp gì không?
Tôi vội nói:
– Dạ! Tôi muốn tìm chị Nữ.
– Vậy nhà người đi hết sông này, đến ngã ba sông có cây gạo, sẽ gặp người muốn tìm. Lần sau đến hồ, nhà người hãy thả cái thuyền Bát Nhã và Hoa đăng cho các cô hồn qua được bể khổ, về miền cực lạc. Dưới đáy hồ còn nhiều cô hồn lắm.
Tôi vừa định thưa vâng, thì thoắt cái, hoàng tử, công chúa, lâu đài biến mất. Choàng dậy, tôi thấy lạnh mà đầm đìa mồ hôi như toát dương. Hôm sau, tôi xuống Thác Bà, tôi thuê xe ôm đi dọc triền sông Chảy. Qua Hán Đà, Đại Minh, đến Chí Đám, người xe ôm bảo đã tới ngã ba sông. Tôi nhìn xung quanh, đúng là có cây gạo cổ thụ. Dưới gốc cây gạo có quán nước nhỏ. Tôi rẽ vào hỏi thăm. Bà lão chủ quán bảo:
– Ở đây không có ai là Nữ, còn lái bè thì có ông Quyền Thác, nhà trước mặt kia kìa.
Tôi hỏi:
– Cụ có biết bà Quyền từ đâu tới không ạ?
– Bà ấy chẳng mấy khi ra khỏi nhà. Hình như là người mạn ngược, lúc theo ông Quyền về đây bụng chửa vượt mặt.
Nghe bà lão kể, tôi vội trả tiền nước, bảo người xe ôm ngồi chờ. Thấy cánh cổng khép hờ, tôi khẽ mở bước vào đầy hồi hộp. Nếu đúng chị Nữ, gặp tôi, chắc mừng lắm. Thấy một người đàn bà đội nón xùm xụp đang hí húi lảu cỏ vườn, tôi cất tiếng:
– Bác gì ơi!
Người đàn bà vẫn hí húi lảu cỏ. Tôi lại lên tiếng:
– Bác gì ơi, cho tôi hỏi thăm ạ.
Người đàn bà vẫn không động tĩnh gì. Tôi liền gọi:
– Chị Nữ ơi!
Người đàn bà bỗng giật mình, ngẩng lên. Chị Nữ! Đúng chị Nữ! Khuôn mặt vẫn như xưa, chỉ đậm người hơn. Thấy chị vẫn ngơ ngơ nhìn, tôi rối rít:
– Chị không nhận ra em sao? Em là Lâm, Lâm Vật Giò đây mà. Em mới trong Nam về…
Người đàn bà vẫn thần mặt, nhìn tôi trân trân. Tôi cố vớt vát:
– Chị không mời em vào nhà à?
Lúc này, chị Nữ mới buông cuốc, mời tôi vào nhà. Tôi vồn vã gợi lại chuyện cũ, bỗng chị cắt ngang lời tôi:
– Đúng, tôi là người Lâm tìm nhưng không còn là Nữ nữa. Chị Nữ ngày xưa của Lâm chết lâu rồi. Xin Lâm đừng nhắc lại chuyện cũ. Lâm cũng đừng kể với ai gặp tôi hôm nay…
Biết có nài nỉ cũng không làm cho cuộc gặp tốt hơn, tôi liền lấy chiếc khăn mùi xoa ra hỏi:
– Chiếc khăn này có phải của chị không?
Tôi vừa mở chiếc khăn, chị Nữ bỗng vồ lấy, hai tay nâng chiếc khăn ấp vào ngực, giọng run run:
– Đúng, nó… nó là của tôi, nhưng… nhưng…. sao… Lâm… Lâm lại có…
– Một người dân Long An, tìm thấy chiếc khăn trong thi hài người lính giải phóng hy sinh. Ông ta đã chôn người lính và giữ lại chiếc khăn này…
– Vậy là anh Lý…
– Anh Lý đã hi sinh, phần mộ anh trong vườn nhà người dân Long An. Em đã tới…
Chị Nữ đưa chiếc khăn khỏi ngực, nhìn trân trân. Tôi giật mình, thấy vệt máu của anh Lý thấm trên khăn, lâu ngày ngả màu xám nghoét bỗng hồng tươi như mới. Chị Nữ, nước mắt đầm đìa trên mặt, nghẹn nghào:
– Ngày trước tôi hay mơ thấy anh Lý lắm, đêm nào cũng mơ. Có đêm mơ thấy máu ướt đầm người anh. Tôi sợ, không ngủ nổi, ra sông ngồi như người mất hồn. Một đêm, tôi lội nước bị cuốn vào vật cũng không biết. Bè ông Quyền đêm ấy cũng bị cuốn vào vật, nghe tiếng quẫy đạp, ông ấy bơi ra kéo tôi lên bè. Tôi ở trên bè cả đêm với ông Quyền cứ ngỡ là đang ở với anh Lý. Nhưng cũng từ đấy không mơ thấy anh Lý nữa. Tôi có thai với ông Quyền, bị bố mẹ đuổi. Đêm ấy tôi ra bãi chôn người chết trôi ngồi, rồi lao xuống vật định tự tử cho xong mọi chuyện. Nhưng người cứ nổi như có một bàn tay nào nâng lên. Thoảng có tiếng: “Em còn nặng nợ đời lắm, chưa thoát kiếp người được đâu”. Sáng hôm sau bè ông Quyền qua, lên thắp hương, thấy tôi nằm ngất gục vào cái mả đôi liễn cõng tôi xuống bè.
– Chị có hạnh phúc không?
– Cũng chả thiếu gì nhưng chỉ là cái máy đẻ cho ông Quyền.
Rồi chị nhìn tôi bảo, thương anh Lý nhưng giờ không làm được gì. Nhìn chị, lòng tôi cứ nghẹn lại. Lúc chia tay, đợi tôi qua cổng, chị khép cánh rồi quay vào ngay. Khi ra quán nước, bà lão bán nước hỏi có đúng người cần tìm không? Tôi nói không mà không dám nhìn thẳng vào mắt bà.
NGUYỄN HIỀN LƯƠNG
> Xem thêm:

Pingback: Sắc mây trên đỉnh Tà Xùa - Trần Nguyên Mỹ - Văn học nghệ thuật Lai Châu